Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập)

20/02/201301:48(Xem: 13767)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập)
Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-box_1

*
Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 1

🙏🙏🙏🌻🌻🌻🌺🌺🌺🌿🌿🌿💐💐💐

Lời đầu sách

Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt.

Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: "Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào. Tôi mang quyển sách ấy đi theo cùng với những chuyến hoằng pháp tại Ý, Hoa Kỳ, Đan Mạch, Nga, Na Uy v.v… nghĩa là nơi nào ngoài giờ giảng và hướng dẫn cho quý Phật Tử tu, tôi cố gắng phiên dịch cho xong quyển nầy, ngay cả trong mùa An Cư Kiết Hạ vừa rồi tại chùa Viên Giác Hannover tôi cũng đã dành rất nhiều thời giờ cho việc phiên dịch quyển sách nầy.

Mùa hè năm 2008 có Sư Cô Chơn Toàn giúp đỡ đánh máy toàn bộ quyển sách nầy; nên bây giờ anh Như Thân đã Layout và chú Sanh ở văn phòng chùa Viên Giác sửa lại lỗi chính tả để hoàn thành quyển sách và hôm nay thì sách đã trang trí xong, độ hơn 900 trang A5 và kèm thêm những hình ảnh nữa; cho nên quyển truyện rất dày, chắc phải đóng bìa cứng mới được. Do vậy giá thành mỗi cuốn khi ấn tống có lẽ rất cao. Kính mong quý Đạo Hữu ở Hoa Kỳ cũng như Âu Châu và khắp nơi trên thế giới hỗ trợ cho việc in ấn nầy để sách được ra đời, nhằm tô điểm thêm cho đức tin của người con Phật ở nhiều phương điện khác nhau.

Khi nhắc đến Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đa phần chúng ta đều nghĩ đến "Kinh Địa Tạng“ cũng như những mẩu chuyện tiếp độ cho những người chết qua
những câu chuyện được kể rải rác đó đây; nhưng trong gần 300 câu chuyện của quyển sách nầy hơn 90 phần trăm là Ngài đã cứu cho người sống, nhất là những người bị bệnh hiểm nghèo, chính y khoa Nhật Bản bó tay, người bệnh hay thân nhân họ khi đến cầu nguyện nơi Ngài sẽ nhận được những phép mầu.

Chữ Địa Tạng tiếng Phạn gọi là Kstigarbha. Chữ Ksti có nghĩa là đất; garbha có nghĩa là tạng hay tàng chứa. Đất có khả năng tàng chứa mọi vật, mọi thứ.

Điều nầy chứng tỏ rằng hạnh nguyện của vị Bồ Tát nầy có sức kham nhẫn, chịu đựng giống như sự nhẫn nại của đất vậy. Trong Ấn Độ giáo họ có thờ Thiên Tiên và Địa Mẫu. Thiên Tiên thường thường là người nam; còn Địa Mẫu đa phần là người nữ. Địa Mẫu của Ấn Độ giáo, mà Phật Giáo đã từ từ đồng hóa thành vị Bồ Tát củaPhật Giáo qua hình thức là một người nam; nhất là khi qua đến Trung Hoa, Nhật Bản,  Việt Nam, Đại Hàn v.v… là tướng của một Tăng sĩ xuất gia đầu tròn áo vuông, đầu đội mũ Tỳ Lư và ngồi trên lưng con Đề Thính, tay cầm tích trượng. Đây chính là hình ảnh của Ngài Kim Kiều Giác, là một Đông Cung Thái Tử triều nhà Kim bên Đại Hàn, khi qua Trung Quốc và đến Cửu Hoa Sơn vào đời thịnh Đường (thế kỷ thứ 7) để tìm chơn thân và hạnh nguyện của Ngài Địa Tạng; nhưngcuối cùng Ngài Kim Kiều Giác là hiện thân của Ngài Địa Tạng khi Ngài viên tịch ở tuổi 88 tại Cửu Hoa Sơn.Do vậy Cửu Hoa Sơn là một trong 4 địa danh sơn của bốn vị Bồ Tát đang hùng cứ 4 dãy núi to lớn tại Trung Quốc cho đến ngày hôm nay.

Khi dịch sách tôi cũng rất thận trọng. Vì lỡ mình truyền đi những điều mê tín cho Phật Tử thì không nên; do vậy vừa dịch ra tiếng Việt vừa kiểm lại xem thử ra sao và tôi xin kết luận rằng: Sác suất của độ chính tín hơn 80 phần trăm; 20 phần trăm còn lại dĩ nhiên là do cái nầy có; nên cái kia nó sinh ra thêm. Như vậy cũng không sai với nhân duyên trong giáo lý nhà Phật là mấy.

Dựa vào cơ sở nào để tôi nói rằng: Đây là quyển sách và những câu chuyện đa phần là chánh tín ? Xin thưa - Dựa vào văn hóa của người Nhật Bản và dựa vào Đức Tin của con người. Đứng về phương diện văn hóa mà nói thì kể từ thời Minh Trị Duy Tân (1868) tất cả mọi người dân Nhật đều phải trải qua chế độ „nghĩa vụ giáo dục“ có nghĩa là vào thời đó, bất cứ ai cũng phải học xong Tiểu Học. Sau hơn 100 năm, vào năm 1972 khi tôi có dịp sang Nhật Bản du học và vào lúc ấy thì mọi người dân Nhật đều phải tốt nghiệp Tú Tài 2; nghĩa là phải xong Trung Học đệ nhị cấp. Còn bây giờ vào thời điểm 2008 nầy gần 130 triệu dân Nhật hầu như không có người nào là không tốt nghiệp Đại Học. Như vậy là một nước Á Châu theo Phật Giáo có trình độ dân trí cao. Khi dân trí cao, dĩ nhiên y học cũng phải cao theo; nhưng tại sao từ năm 1976 đến năm 2008, gần 35 năm, và mỗi năm có khoảng một triệu người Nhật đến đây cầu nguyện chữa bệnh; trong đó hơn 70 phần trăm được lành bệnh, mà đa phần những bịnh như ung thư, trĩ, phong thấp, tê liệt v.v…mà Bác sĩ y khoa Nhật Bản đã chê, mà đến Ngài Địa Tạng cầu nguyện lại sống thêm được 5 đến 10 năm nữa và căn bệnh lại được trị lành hoàn toàn? Dĩ nhiên là không ai có thể sống đến 100 năm hay mấy trăm năm trên cuộc thế; nhưng đã có bịnh thì ai cũng mong muốn chữa cho khỏi; nếu bịnh không khỏi, ví như có một hòn đá cứ phải đeo mãi vào lưng thì khổ sở biết c hừng nào. Cách chữa bịnh của Ngài do con người cầu nguyện mà có; chứ không phải Ngài ra toa thuốc cho mọi người. Nếu có thì toa thuốc ấy chỉ là niềm tin và câu thần chú của Ngài là: Án Ha Ha Ha Vỹ Sa Ma Lý Sa Bà Ha“ mà thôi.

Như vậy không có nghĩa là người Nhật Bản không mê tín; nhưng ở đây tôi chứng minh là  độ mê tín ít hơn với những người ít học. Vì ít ra văn hóa và y khoa hiện đại vẫn là nền móng căn bản cho sự chữa trị theo quan niệm thông thường. Đa phần khi người ta nghĩ đến niềm tin, người ta hay xoay qua thời kỳ Trung Cổ hay thời kỳ khoa học chưa tiến bộ mấy; nhưng Nhật Bản ngày nay là một trong những nước lớn trên thế giới, mạnh mẽ ở nhiều phương diện như kinh tế, khoa học, giáo dục, y khọc, giao thông v.v… nhưng Đức Tin ở đây vẫn vượt thắng trên tất cả. Riêng cá nhân tôi khi ở tuổi 59 vào năm ngoái (2007) mỗi ngày ngồi dịch sách, kinh 5 đến 6 tiếng đồng hồ và tối, sáng còn ngồi tụng kinh cũng như hành trang nữa; nên cái lưng khiến nó không tuân phục nữa. Nghĩa là mỗi ngày đều bị đau. Khi dịch những mẩu chuyện linh ứng nầy tôi phát nguyện rằng: „Nếu quả Ngài thật linh ứng thì xin cho con hết đau lưng sau khi con dịch xong sách nầy và con sẽ tổ chức một chuyến hành hương đến Nhật để đảnh lễ tham bái và tạ lễ Ngài“. Quả thật như vậy. Sau khi dịch xong vào tháng 6 năm 2008 cái lưng của tôi bớt đau độ 80 phần trăm. Do vậy tôi xúc tiến tổ chức một phái đoàn sang hành hương nước Nhật từ ngày 6 đến ngày 17 tháng 10 năm 2008. Chương trình dự trù đi Kanagawaken để thăm và dự lễ đặt đá xây dựng Chùa Việt Nam nơi Hòa Thượng Thích Minh Tuyền trụ trì, thăm Hachioji, chùa Honryuji nơi tôi đã có cơ duyên tá túc từ năm 1972 đến năm 1977, thăm Đại Học Teikyo, thăm tượng Phật Di Đà cao 120 mét tại Ushikyu gần Tokyo. Tiếp theo là thăm những chùa viện quanh vùng Yokohama và Tokyo. Đặc biệt phái đoàn 32 người đến từ Âu Châu và Mỹ Châu đã ghé thăm chùa Soojiji (Tổng Trì Tự) là Tổng Bổn Sơn của Thiền Tào Động Nhật Bản. Tiện thể tôi đã tặng dịch phẩm „Thiền Tào Động“ cho Ngài tác giả IZUMA là thiền chủ tại đây. Sau đó phái đoàn đi Kyoto để thăm chùa Tây Bổn Nguyện Tự, Thanh Thủy tự và đồng thời thăm chùa Tổ Tịnh Độ Từ Ân Viện nơi Ngài Pháp Nhiên khai sơn cũng như Ngài Thân Loan tu Tịnh Độ. Tại đây chúng tôi có tặng một quyển sách dịch về Tịnh Độ Tông Nhật Bản cho vị Sư trụ trì. Phái đoàn tiếp tục đi Osaka và địa phương cuối cùng là thành phố Fuchù ở Hiroishima. Fuchù là một thành phố nhỏ nằm trong tỉnh lỵ Hiroshima và Đức Địa Tạng không có đầu đang được tôn trí trên một ngọn đồi rất quang đãng. Ngày xưa nơi đây là đồng ruộng và bây giờ vẫn còn cảnh nông trang bao bọc chung quanh; nhưng khi leo lên dốc để vào đảnh lễ Ngài, lòng người con Phật đến đây từ xa hơn nửa vòng trái đất, thấy dường như có cái gì đó thật cảm động ở tận đáy lòng. Chúng tôi 32 người không ai bảo ai, cả Tăng lẫn tục đều y áo chỉnh tề để làm lễ và sau đó ai muốn cầu nguyện riêng cho mình và cho thân nhân thì cứ việc hành trì. Hôm đó là sáng ngày 15 tháng 10 năm 2008. Mỗi người thỉnh một hay nhiều chiếc khăn tay, trên đó có viết câu thần chú bằng tiếng Nhật là: „Án Ha Ha Ha Vỹ Sa Ma Lý Sa Bà Ha“ và đem khăn nầy đến cọ sát vào mình đá của Ngài nhiều lần cũng như nói tên họ của người bịnh và đem về lại nhà. Khi nào người bịnh đau cái gì và đau nơi đâu thì để khăn ấy vào chỗ đau và tụng câu thần chú ấy, sẽ có hiệu nghiệm ngay.

Dĩ nhiên là sự cầu nguyện đối với trong phái đoàn cũng có hiệu nghiệm ngay. Bằng chứng là nhiều bà cụ đi đến đây bằng xe lăn và gậy chống; nhưng bây giờ khi leo lên dốc không cần xe lăn lẫn gậy chống nữa và mãi cho đến khi về lại Đức cũng chưa lần nào dùng đến gậy nữa. Quả là phép Phật nhiệm mầu là vậy. Trong đoàn cũng có nhiều Thầy Cô và quý Phật Tử đi tam bộ nhứt bái để đảnh lễ Ngài và cũng có nhiều người thấy được ánh hào quang của Ngài xuất hiện giữa ban ngày. Có người lấy nước suối uống; có người lấy bột nhang mang về lại Âu Châu, lỡ cơ nhỡ có ai bị bịnh phỏng hay bịnh khó trị, có khi còn dùng đến được nữa. Thực tế thì „mọi pháp đều do nhân duyên sanh và mọi pháp cũng đều do nhân duyên diệt“ cho nên sự đến, sự đi, sự còn, sự mất… tất cả cũng chỉ là một hiện tượng mà thôi. Ngay cả ba ngàn Đại Thiên Thế Giới lớn nhỏ nầy Đức Phật nói trong kinh Kim Cang cũng chỉ là một hợp tướng thôi. Đã là một hợp tướng, tức có khi tan rã. Lúc ấy là lúc không đủ duyên. Như vậy trên cuộc đời nầy đâu có cái gì miên viễn ngoài niềm tin đâu. Hãy tin sâu và nguyện thiết thì tất cả mọi nguyện ước sẽ thành tựu. Tiếng Đức có câu là: Alle Phänomen sind unbeständig hay Alle Phänomen sind unsicher. Nghĩa là „mọi hiện tượng đều không có thật tướng; mọi hiện tượng đều không chắc chắn“. Đã gọi là hiện tượng thì có gì đâu mà nắm chắc vào để cho khổ lụy tấm thân nầy. Vì căn bản của nó là giả. Phật hay Bồ Tát là đúng như các pháp vẫn thường hằng. Còn chúng ta cứ giong ruổi mãi trong 6 nẻo luân hồi chưa biết lúc nào ra; nếu không nhờ vào tha lực của Đức Phật A Di Đà hay sự cứu khổ độ mê của Ngài Địa Tạng hay Đức Quan Thế Âm Bồ Tát thì chúng ta vẫn còn mãi chìm đắm nơi cảnh khổ của sanh tử luân hồi.

Tôi, anh, chị, em, con, cháu v.v... tất cả rồi cũng sẽ trôi qua đi. Vì chúng ta mỗi người đến đây cũng chỉ một thời gian ngắn để làm một số công việc, rồi đến ngày cũng phải theo Phật về Tây. Vậy khi còn sống chúng ta phải làm một cái gì đó cho thật có ý nghĩa, để khi ra đi chúng ta chẳng có ân hận gì. Vì thực tế của cuộc sống nầy nó cũng chỉ là một sự giả hợp mà thôi.

Mong rằng quý Đạo Hữu, Phật Tử khi đọc những câu chuyện linh ứng nầy hãy ghi nhớ vào lòng và nếu ai có nhân duyên hãy nên một lần đến đó để được đảnh lễ Ngài và mong Ngài cứu độ.

Kính nguyện
Viết xong lời tựa vào ngày 15 tháng 12 năm 2008
tại Tu Viện Đa Bảo – Úc Đại Lợi, nhân lần nhập
thất thứ 6.
Dịch giả: Sa Môn Thích Như Điển



pdf-icon
01. Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát _tập 01_HT Thích Như Điển dịch Việt

Chuyển ngữ: HT Thích Như Điển
Diễn đọc: Cư sĩ Diệu Danh


T
ập 1 - Phần 1

  
Tập 1 - Phần 2


Tập 1 - Phần 3


Tập 1 - Phần 4


Tập 1 - Phần 5


Tập 1 - Phần 6



Tập 1 - Phần 7



Tập 1 - Phần 8



Tập 1 - Phần 9





Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 2
*
pdf-icon
02. Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát _tập 02_HT Thích Như Điển dịch Việt


Tập 2 - Phần 1

 


Tập 2 - Phần 2

 

Tập 2 - Phần 3



Tập 2 - Phần 4


Tập 2 - Phần 5


Tập 2 - Phần 6



Tâp 2 - Phần 7



Tập 2 - Phần 8






Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 3
*

Tập 3 - Phần 1



Tập 3 - Phần 2



T
ập 3 - Phần 3



Tập 3 - Phần 4



Tập 3 - Phần 5




Tập 3 - Phần 6





 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2012(Xem: 8316)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữvà Đạt tâm. Do đó, chư Phật, chư Tổ ứng cơ thị hiện, tiếp dẫn độ sanh, nhằm mục đích tạo cho con người có một cuộc sống an bình tự tại. Phương tiện thì nhiều, nhưng cứu cánh chỉ có một. Nếu chúng ta biết tự chủ, nỗ lực tinh tiến dũng mãnh không chi chẳng thành tựu. Tinh tiến ít thì đạt kết quả ít, tinh tiến nhiều thì đạt kết quả nhiều. Tinh tiến rốt ráo thì kết quả viên mãn.
26/07/2012(Xem: 11555)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
24/07/2012(Xem: 13621)
Ở đây lời khuyên của Đức Phật đưa ra cho chúng ta là hãy sống thiện, chuyên cần và hành động một cách hiểu biết nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta.
20/07/2012(Xem: 10140)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
06/07/2012(Xem: 15107)
Cách đây vài năm, để tìm tài liệu cho cuốn sách của tôi ‘thế giới vắng bóng con người’ (the world without us) tôi có viếng thăm một bộ lạc ở Ecuador, Nam Mỹ. Mảnh đất nhỏ này may mắn còn sót lại của rừng già Amazon nổi tiếng màu mỡ, nhưng cũng bị khai thác đến mức cạn hết nguồn thực phẩm nên người dân bộ lạc bắt buộc phải săn bắn loài khỉ nhện (spider monkey) để ăn thịt. Điều này làm cho họ rất đau lòng bởi vì họ vẫn tin rằng họ là con cháu của loài khỉ nhện này.
05/07/2012(Xem: 10266)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
15/06/2012(Xem: 5186)
Trong kinh điển Phật giáo , có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một sồ câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc hoặc thiếu thực tế . Đức Phật thấy rõ , những người đặt các câu hỏi như thế thì hoặc chính bản thân họ không hiểu , hoặc họ chỉ nhằm khoe khoang kiến thức qua những tưởng tượng hay ức đoán ; và nếu có trả lời thì tính hạn chế của ngôn ngữ cũng khiến mọi giải thích không thể diễn tả rốt ráo mọi điều thấy biết của Đức Phật . Vì thế mà Đức Phật chỉ im lặng .
14/06/2012(Xem: 20513)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
19/03/2012(Xem: 6493)
Nỗi khổ đau suốt trăm năm trong cõi người ta vẫn hoài đè nặng lên kiếp người như một người mang đôi gánh nặng trĩu trên vai và đi mãi trên con đường dài vô tận, không khi nào đặt xuống được. Nhưng ngàn xưa vẫn chưa có bậc xuất thế nào tìm ra con đường thoát khỏi khổ đau của sanh, lão, bệnh, tử nên trong tiền kiếp Đức Phật cũng đã từng xông pha lăn lộn trong cuộc đời đầy cát bụi và đã trải qua biết bao khổ đau, thương tâm cũng như nghịch cảnh để tìm ra người thợ xây ngôi nhà ngũ uẩn và dựng lên những tấm bi kịch thường diễn ra trên sân khấu cuộc đời.
04/03/2012(Xem: 46032)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (tập 4), mục lục: Sắc đẹp hoa sen Chuyện hai mẹ con cùng lấy một chồng Cảm hóa cô dâu hư Bậc Chiến Thắng Bất Diệt - Bạn của ta, giờ ở đâu? Đặc tính của biển lớn Người đàn tín hộ trì tối thượng Một doanh gia thành đạt Đức hạnh nhẫn nhục của tỳ-khưu Punna (Phú-lâu-na) Một nghệ sĩ kỳ lạ Vị Thánh trong bụng cá Những câu hỏi vớ vẩn Rahula ngủ trong phòng vệ sinh Voi, lừa và đa đa Tấm gương học tập của Rahula Bài học của nai tơ Cô thị nữ lưng gù
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567