Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kệ ngôn kinh Pháp Cú số 295

15/04/201312:47(Xem: 15926)
Kệ ngôn kinh Pháp Cú số 295

Kinh Pháp Cú

Kệ Ngôn Kinh Pháp Cú Số 295

Tỳ kheo Chánh Minh

Nguồn: Tỳ kheo Chánh Minh

Màtàram pitaram hantvà
Ràjàno dve ca sotthiye
Veyyaggha pancanam hantvà
Amgho yàti brahmano

Nghĩa:

Đã giết mẹ, cha và hai ông vua của giai cấp Bà-la-môn và tiêu diệt con đường nguy hiểm (chướng ngại), vị A-la-hán ra đi không sầu muộn (Hoà thượng Nàrada - Phạm Kim Khánh dịch).

Thi hóa:

"Mẹ cha"đã giết đã chôn
và hai vua Bà-la-môn, chém ngành!
Đoạn viên hổ tướng thứ năm
Bậc vô ưu sống cõi hằng vô sinh
(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Bài giảng:
Theo Sớ Giải (Atthakathà) kinh Pháp cú:
- Mẹ (màtà) ám chỉ ái dục (tanhà)
- Cha (pità) chỉ cho ngã mạn (màna)
- Con đường nguy hiểm - Veyyaggha pancamam - chỉ cho hoài nghi, là một trong năm chướng ngại của tinh thần.

Giải:

- Ái dục (tanhà): ví như mẹ.

Người mẹ là người đã sinh con, cũng vậy chính ái-dục đã tạo tác ra chúng sinh trôi lăn trong vòng luân hồi.

Ái là sự bám víu vào cái gì đó; ái và tham (lobha) có khác nhau không? Có. Tuy có đồng tính chất là bám víu cái gì đó nhưng ái và tham có những điểm khác nhau như :

Ái thì chìm ẩn, trái lại tham hiện bày rõ rệt.

Ái thường xuyên ẩn trong tâm chúng sanh, trái lại tham khi thì có, khi thì không như:

Người Phật tử khi bố thí cúng dường, giữ gìn giới hạnh, tu thiền... khi ấy không có tham nhưng vẫn có ái. Vì sao? Vì có sự ao ước hưởng quả lành, những phước thiện trên vẫn đưa đến tái sanh, tức là còn luân hồi. Nguyên nhân dẫn đến luân-hồi là do ái.

Khi Phật tử tạo phước mà còn nghĩ đến thụ hưởng an lạc hạnh phúc thế gian trong tương lai, đó chính là ái đang biểu hiện sức mạnh của mình và phước này không trở thành Ba-la-mật trọn vẹn. Tốt nhất nên hướng tâm đến sự giải thoát khỏi vòng sinh tử.

Sân (dosa) cũng dẫn đến khổ. Vì sao trong Kinh Chuyển Pháp-luân, Đức Phật dạy: Nguyên nhân sanh khổ là ái? Tức là :

- Thích thú trong màu sắc, âm thanh, hương thơm, vị ngon ngọt, sự đụng chạm êm ái, gọi là Dục ái (kàma-tanhà).

- Thích thú trong cái có, gọi là Hữu-ái (bhava-tanhà).

- Thích thú trong cái không có gọi là Phi Hữu-ái (vibhava-tanhà).

Sỡ dĩ sân (dosa) sanh khới là do yêu thích "cái tôi" hay thích "cái của tôi". Người A mắng người B ta không thấy giận, nhưng nếu mắng ta hay người thân của ta, hoặc làm tổn hại tài sản của ta lập tức cảm thấy khó chịu, khó chịu tăng dần trở thành nóng giận.

- Ngã-mạn (màna): ví như cha.

Lẽ thường cha + mẹ => sinh ra con. Cũng vậy Ái được Ngã-mạn trợ giúp nên có đủ sức mạnh cuốn trôi chúng sanh trong vòng luân hồi.

Ngã Mạn: nghĩa ngắn ngọn là "cái tôi" hay "đời sống của tôi".

Ngã Mạn là trạng thái phấn khởi của tâm, Đức Phật dạy: "Hãy hạ cờ Ngã-Mạn" (Tăng Chi Kinh). Cờ gặp gió tung bay phần phật như thế nào, tâm khi nghĩ đến điều mình có được sẽ hừng lên như thế ấy.

Có lần Đức A-nậu-đà-la (Anuruddha) có nói với Đức Xá-lợi-Phất rằng:

- Này Hiền giả Xá-lợi-Phất, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, tôi nhìn thấy ngàn thế giới như nhìn một vật trong lòng bàn tay.

- Này Hiền giả A-nậu-đà-la, ý nghĩ: "với thiên nhãn thuần tịnh... trong lòng bàn tay" đó là kiêu mạn của Hiền giả.

Ngã Mạn là trạng thái so sánh mình với người qua sự hơn - bằng - thua.

Thí dụ như một giảng sư có bằng Tiến-sĩ và một giảng sư có bằng Cử-nhân. Cả hai điều diễn thuyết rất hay, vị giảng sư Tiến-sĩ nghĩ rằng: "Ta và vị giảng sư ấy đều diễn thuyết hay, nhưng ta có bằng Tiến-sĩ còn vị ấy chỉ có bằng Cử-nhân". Đây là cách so sánh hơn so với bằng.

Ngoài ra còn có cách tự ty mặc cảm như: tôi dốt, tôi nghèo, tôi dỡ mặc kệ tôi, xin đừng nói đến tôi.

Tóm lại, Ngã-mạn có hai trạng thái: tự cao tự thị và tự ty mặc cảm.

Xét cho cùng ngã-mạn cũng nương sanh từ ái, tức là yêu thích cái tôi (ái-ngã). Ngã-mạn ví như hơi thở của ái, bao giờ Ái diệt thì Mạn cũng diệt, ngược lại bao giờ Mạn diệt thì Ái cũng diệt.

Bậc Thánh Bất-lai (A-na-hàm) vẫn còn Ngã mạn và Ái (là ái sắc và ái vô-sắc) nên còn tái sinh vào cõi Sắc hay cõi Vô-sắc.

Khi thành đạt quả vị A-la-hán bấy giờ mới diệt trừ trọn vẹn Ái và Mạn.

- Hai vua Bà-la-môn:

Thông thường tín ngưỡng Bà-la-môn giáo là tu tập Thiền Tứ Vô-lượng tâm (Từ-Bi-Hỷ-Xả) để thể nhập vào Đại Ngã (là Đại Phạm -thiên). Hai vua Bà-la-môn ở đây, Đức Phật ám chỉ hai loại thiền là Thiền-sắc và Thiền Vô-sắc. Đỉnh cao cũa thiền Sắc-giới là Tứ thiền, đỉnh cao của Thiền vô-sắc là Thiền Phi-tưởng Phi Phi-tưởng xứ. Hai loại Thiền này chỉ là con đường, hay phương tiện, tiến đến Níp Bàn tịch tịnh, người tu tập Thiền với mục đích giải thoát khỏi sinh tử, không hề thích thú trong những tầng Thiền mình đã đạt, vì còn thích thú trong Thiền-cảnh là còn bị Ái trói buộc.

Giả như: có người muốn đi từ Thành phố A đến Thành phố B. con đường người ấy phải đi qua có nhiều kỳ hoa dị thảo, có những quán trọ sang trọng, nếu cứ mãi ở đấy hưởng thụ thì người ấy không thể đến thành phố B, đồng thời tài sản (ám chỉ phước báu) sẽ khánh kiệt. Thành phố A ví như bờ mê, Thành phố B ví như bến giác. Thiền-sắc hay Thiền Vô-sắc ví như con đường.

Do vậy, Đức Phật dạy: giết cả hai vua Bà-la-môn. Nghĩa là diệt trừ cái Ái-sắc và Ái vô-sắc.

- Con đường thứ năm, ở đây ám chỉ hoài nghi.

Trong Thiền yên lặng ( thiền Chỉ) thì hoài nghi chỉ là thứ yếu, trái lại trong Thiền xem xét (thiền Quán) để nhận ra được ba tướng Vô-thường, Khổ, Vô-ngã thì hoài nghi là quan trọng.

Trong Kinh Tâm Hoang-vu (Trung bộ I), Đức Phật dạy đại ý là: "Người có tâm hoài nghi về Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, Học-giới có thể lớn mạnh thành đạt giải thoát trong Pháp-luật này, điều này không xẩy ra".

Hoài nghi là trạng thái do dự, phân vân ví như người đang đứng ở ngã ba đường chẳng biết nên chọn đường nào? Chính hoài nghi là một cản trở lớn nhất trong tiến trình hành đạo đi đến giải thoát.

Mặc khác, nương sanh vào Trí có thể sanh khởi hoài nghi vì trí thường xét một sự kiện theo nhiều khía cạnh, do đó dẫn đến tâm mất định hướng, nói cách khác khiến phóng dật sanh khởi. Thế là giúp cho nghi hoặc sanh lên.

Vì thế trong Thiền xem xét (quán), hai pháp Tín và Tuệ hổ trợ cho nhau rất mạnh. Tín giúp cho Trí áp chế nghi hoặc, Trí giúp cho Tín không phải tin sai lầm. Vì chưa thấy ba tướng hiển lộ nên còn nghi, khi thấy ba tướng xuất hiện rồi thì hoài-nghi tạm thời đoạn trừ.

Đức Punna Mantaniputta trong kinh Trạm xe của Trung-Bộ Kinh trình bày bảy giai đoạn thực hành Thiền Tuệ là:

1) Giới tịnh dẫn đến Tâm tịnh
2) Tâm tịnh dẫn đến Kiến tịnh
3) Kiến tịnh dẫn đến Đoạn-nghi tịnh
4) Đoạn-nghi tịnh dẫn đến Thực-hành thanh-tịnh
5) Thực-hành thanh tịnh dẫn đến Hiểu-biết thanh tịnh
6) Hiểu-biết thanh tịnh dẫn đến Hiểu-biết giải thoát thanh-tịnh.
7) Kiến tịnh là sự thấy trong sạch, tức là thấy được ba tướng: vô thường, khổ và vô-ngã.

Đoạn nghi tịnh là chấm dứt hoài nghi, tâm được trong sạch. Ví như, có người bảo rằng: "Tôi có tài sản lớn", khi chưa thấy, ta có thể nửa ngờ nửa tin, nhưng khi thấy rõ rồi thì hoài nghi vấn đề này không còn nữa.

Tóm lại, với người có tâm tầm cầu giải thoát, trước tiên nên đặt niềm tin vào lời dạy của Đức Phật, rồi thực hành thấy được ba Tướng, (vô-thừong, khổ, vô-ngã). Trong quá trình hành đạo nên tùy thời dùng Tín và Trí hổ trợ lẫn nhau để thoát ra hoài nghi. Không bám vào các tầng Thiền-sắc hay Vô-sắc tinh tấn tận trừ được Ái và Mạn thành đạt quả giải thoát khỏi sanh tử vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/10/2013(Xem: 12641)
Tạp chí nghiên cứu người tiêu dùng Journal of Consumer Research công bố một khảo sát năm 2012, kiểm chứng rằng tại sao người tiêu dùng là nam giới lại thường tránh xa chuyện ăn chay. Trong đó, khảo sát này nhấn mạnh "Thịt dường như đồng nghĩa với quyền lực và sức mạnh đàn ông".
30/10/2013(Xem: 39255)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
30/10/2013(Xem: 8386)
Một nữ doanh nhân nổi tiếng trong lĩnh vực địa ốc, nổi tiếng vì sở hữu nhiều ngôi nhà đẹp, từng có nhiều bài viết sắc sảo về kinh doanh. Thời gian gần đây chị “từ bỏ cuộc chơi” để tìm về với Phật pháp và chọn Huế là nơi chốn dừng chân của mình. Trong một thời gian ngắn từ 2010 đến nay, chị đã xây dựng ở Huế ba công trình từ thiện và nổi bật là Cát Tường Quân với kiến trúc độc đáo và thanh tịnh đang trở thành điểm đến của du khách mỗi khi dừng chân ở Huế.
29/10/2013(Xem: 12504)
Trong lá thư này, Lạt Ma Zopa Rinpoche trả lời cho một sinh viên học lâu năm với Ngài, một người đã viết thư để cảm ơn Ngài đã “cầu nguyện, dạy dỗ và che chở” trong nhiều năm qua. Người sinh viên xin được giấu tên hiện đang chăm sóc cho Mẹ đang chịu nhiều đau đớn về thể xác sau khi bị hàng loạt những cơn đột quỵ. Như là một phương pháp để đương đầu với những khó khăn khi chăm sóc, người sinh viên đã tưởng tượng như đang chăm sóc cho Ngài Zopa Rinpoche khi chăm sóc cho Mẹ cô.
26/10/2013(Xem: 62713)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
24/10/2013(Xem: 13187)
Thiền định là một phương tiện chủ yếu vô song của Phật Giáo giúp người tu tập trực tiếp đạt được Giác Ngộ. Đức Phật đã nhắc đến phép luyện tập này ngay trong bài thuyết giảng đầu tiên về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) khi Ngài nói về Sự Thật Cao Quý thứ tư và Con Đường Của Tám Điều Đúng Đắn (Bát Chánh Đạo). Tuy nhiên không phải vì thế mà tất cả những người tự nhận mình là Phật tử đều luyện tập thiền định.
23/10/2013(Xem: 10023)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm. Nếu nói về muôn loài trên thế gian, con người là sinh vật cao cấp sống bằng “tình cảm” vì có hiểu biết, suy nghĩ, nói năng, nhận thức và làm được nhiều việc đóng góp lợi ích thiết thực trong bầu vũ trụ bao la này.
19/10/2013(Xem: 8439)
Ngày 27, tháng 9, năm 2013 – “Nếu bạn có thể học đi xe đạp bạn có thể học làm thế nào để được hạnh phúc,” nhà sư Phật giáo 67 tuổi và là người hạnh phúc nhất trên thế giới nói. Khi còn nhỏ, nhà thơ Andre Breton, nhà làm phim Louis Buñuel và nhạc sĩ Igor Stravinsky là những vị khách thường xuyên của gia đình triết gia Ricard. Tuy vậy, nhận thấy đặc tính của những người bạn của song thân không có vẻ gì là hạnh phúc hơn nên Ngài đã tìm đến Hy mã lạp sơn bỏ sau lưng công việc của một nhà sinh học tại Viện Pasteur và thay đổi cuộc đời qua thiền tập. Tính đến lần cuối cùng, Ngài đã đạt được hơn 10,000 giờ đồng hồ. Phương pháp chụp MRI tinh tế tại phòng nghiên cứu về não bộ tại Wisconsin đã cho thấy mức lạc quan siêu đẳng và hầu như không có chút cảm nhận tiêu cực nào của Ngài. Ngài nói: “Tôi không thấy mọi thứ đều màu hồng nhưng những thăng trầm của cuộc sống không trụ trong tôi theo cách của đời thường.”
19/10/2013(Xem: 12376)
Làm người biết thương yêu và bảo vệ hành tinh sống của chúng ta thì mớ thật sự làm người, mới xứng đáng làm người. Có làm người như vậy mới xứng đáng là người có đạo đức hiếu sinh. Còn ngược lại là phá hoại sự sống của nhau, làm đau khổ cho nhau. Phải không hỡi các bạn? Đạo Đức Hiếu Sinh! Có bốn chữ rất đơn giản, nhưng hành động của nó cao thượng và đẹp đẽ tuyệt vời.
17/10/2013(Xem: 8248)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên và năm 1917 lúc Ngài 22 tuổi đã xuất gia tu học tại chùa Quang Lộc tỉnh Quảng Ngãi với Pháp Danh là Chơn Qúy. Ngài thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh thuộc thế hệ truyền thừa thứ 7. Ngài sinh năm 1895 và viên tịch năm 1961.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]