Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Đâu Có Tham, Sân, Sợ Hãi, Niệm?

25/01/202512:10(Xem: 492)
Từ Đâu Có Tham, Sân, Sợ Hãi, Niệm?
Buddha-307
Từ đâu có tham, sân, sợ hãi, niệm?
Nguyên Giác

     Trong Thiền Tông thường nói rằng khi ngọn đèn sáng thắp lên, thì bóng tối của vô lượng kiếp sẽ biến mất. Hình ảnh đó còn được giải thích là, khi người tu thấy được ánh sáng của bản tâm, nơi không có gì được bám víu, thì vô lượng nghiệp xấu đều biến mất. Kinh điển giải thích điểm này thế nào? 

   Như thế, Thiền Tông muốn nói rằng Phật là ở trong tâm. Không hề có Phật nào bên ngoài. Khi nói có Phật ngoài tâm, chỉ có nghĩa đó là Phật của tượng xi măng, của tượng gỗ. Và những gì ở ngoài tâm thì không ích lợi gì cho công việc tu hành của người tu.

   Thiền sử Việt Nam kể rằng khi Vua Trần Thái Tông (1218-1277) rời bỏ kinh thành, lên núi xin xuất gia, thì được Quốc sư Trúc Lâm dạy rằng: "Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng mà biết, thì đó là Chân Phật. Nay ngài nếu ngộ tâm này thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên ngoài."

   Được dạy như thế xong, Vua Trần Thái Tông trở về kinh thành, tiếp tục miễn cưỡng làm vua. Trong hơn mười năm, những khi được rảnh rỗi, Vua tập họp các vị kỳ đức để tham cứu thiền, hỏi đạo và nghiên cứu các kinh Đại thừa. Vua thường đọc kinh Kim Cang, một lần đọc đến câu “khi tâm không bám chấp vào đâu, thì tâm Niết bàn sẽ hiện ra," vua bỗng nhiên tự hiểu được ý nghĩa thâm sâu của Thiền Tông.

   Sau đó, Vua Trần Thái Tông đem những hiểu biết đó để viết thành một bản văn, đặt tên là Thiền Tông Chỉ Nam. Khi Quốc sư Trúc Lâm từ núi Yên Tử về thăm kinh đô, Vua Trần Thái Tông mời ở chùa Thắng Nghiêm, phụ trách việc ấn bản các kinh. Khi Vua đem tập sách Thiền Tông Chỉ Nam trình Quốc sư, Quốc sư đọc xong liền ca ngợi rằng: "Tâm chư Phật ở trọn nơi đây, trong khi khắc in các kinh, hãy khắc in luôn sách này để dạy kẻ hậu học."

Đó là Phật ở trong tâm. Khi tâm không bám chấp vào đâu, thì tâm Niết bàn hiện ra. Tức là, khi ngọn đèn thắp sáng, thì bóng tối vô lượng kiếp biến mất.

Một bài kệ của Phật giáo Việt Nam có các câu sau:

Tội từ tâm khởi, đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu;
Tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không,
Thế mới thật là chân sám hối.

   Trong hai tạng Kinh Pali và A Hàm cũng có bốn Kinh -- Snp2.5 Sutta, SN 10.3 Sutta, SA 1314, và SA 1324 -- ghi lời Đức Phật trả lời một câu hỏi của một dạ-xoa về cội nguồn của tham, sân, sợ hãi, niệm tưởng từ đâu tới.

Đức Phật trả lời rằng tham, sân, thích, ghét, sợ hãi, niệm đều sinh khởi từ tâm còn chấp ngã, y hệt như dây leo từ ái dục đã tự mọc từ thân cây đa và rồi bao vây thân cây chằng chịt. Đức Phật nói rằng khi người tu nhìn thấy được tất cả chúng từ đâu tới, thì chúng sẽ lụi tàn, và người tu sẽ vượt qua nổi trận lụt rất khó vượt qua này, để không tái sinh nữa.

Có nghĩa là, chỉ cần nhìn thấy cội nguồn của tham, sân, thích, ghét, sợ hãi và niệm tưởng từ đâu xuất hiện, thì tất cả chúng đều sẽ lụi tàn.
   Trong Kinh Pháp Cú có câu chuyện về vị quan Santati. Khi cư ngụ tại tu viện Jetavana, Đức Phật đã đọc bài Kệ 142 trong Kinh Pháp Cú, liên quan đến Santati, vị quan của Vua Pasenadi.

   Có một lần, vị quan Santati sau khi dẹp loạn ở biên giới đã trở về kinh đô. Vua Pasenadi rất hài lòng, nên thưởng cho vị quan này nhiều tài sản, và sự vinh quang. Bên cạnh, vua tặng vị quan một cô vũ nữ xinh đẹp để nhảy múa giúp vui trong bảy ngày. Trong bảy ngày, viên quan Santati say sưa với rượu, với nhan sắc và tài múa của cô vũ nữ.

Vào ngày thứ bảy, viên quan cỡi voi được trang trí lộng lẫy xuống bờ sông để tắm. Trên đường đi, viên quan gặp Đức Phật đang đi khất thực, và vì say, ông chỉ cúi chào một cách hờ hững, như một dấu hiệu của sự tôn kính đối với Đức Phật. Khi thấy Đức Phật mỉm cười, ngài Ananda hỏi Đức Phật tại sao Phật lại mỉm cười. Đức Phật trả lời Ananda rằng viên quan sẽ quay trở lại gặp Đức Phật trong ngày, và khi nghe bài pháp ngắn, viên quan sẽ trở thành một vị A la hán và chứng ngộ Niết bàn.

   Kinh kể rằng Santati và nhóm tùy tùng tới bờ sông, tắm rửa, ăn uống và tận hưởng trọn vẹn niềm vui. Vào buổi tối, vị quan và nhóm tùy tùng đã đến khu vườn để uống thêm và để ngắm cô vũ nữ múa. Cô vũ nữ đã tận lực múa để làm viên quan vui. Đột nhiên, cô vũ nữ đột quỵ, té xuống và chết, trong khi mắt mở trừng trừng và miệng há hốc.

Viên quan sốc, vô cùng đau khổ, và nhớ đến Đức Phật. Viên quan đã đến gặp Đức Phật, kể cho Phật nghe về nỗi buồn vì cái chết đột ngột của cô vũ nữ xinh đẹp. Sau đó, viên quan nói với Đức Phật, xin hãy giúp viên quan vượt qua nỗi buồn, và cho được bình an trong tâm. 

   Đức Phật trả lời viên quan rằng những giọt nước mắt của viên quan này đã rơi vì cái chết của cô vũ nữ kia trong suốt vòng luân hồi còn nhiều hơn nước của tất cả các đại dương. Sau đó, Đức Phật dạy vị quan như sau:

   Trong quá khứ, ngươi đã từng bám víu vì tham ái; hãy loại bỏ nó. Trong tương lai, đừng để sự bám víu như vậy xảy ra trong tâm nữa. Ngay trong hiện tại, đừng nuôi dưỡng bất kỳ sự bám víu nào trong hiện tại; bằng cách không có bất kỳ sự bám víu nào. Như thế, tham ái sẽ dịu lại trong tâm và ngươi sẽ chứng ngộ Niết bàn.

   Sau khi nghe bài kệ, vị quan đã đạt được quả vị A-la-hán. Nhận ra rằng tuổi thọ của mình đã kết thúc, viên quan nói với Đức Phật rằng viên quan muốn nhập Niết bàn ngay. Đức Phật đồng ý. Ngài Santati bay lên cao, vào bầu trời và nơi đó, trong khi thiền định về lửa và toàn thân bốc cháy giữa bầu trời. Xá lợi xương của vị này rơi xuống miếng vải sạch do các nhà sư trải ra theo chỉ dẫn của Đức Phật.

   Tại hội chúng, các nhà hỏi Đức Phật rằng viên quan đã chứng ngộ Niết bàn trong khi mặc đầy đủ lễ phục đời thường, nhưng có thể được gọi là một nhà sư trong thân một bà la môn hay không. Đức Phật nói rằng Santati bây giờ có thể được gọi là cả một sa môn và một bà la môn.

  Lời của Đức Phật dạy ngài Santati có thể tóm tắt là trong cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai đừng có bám víu gì trong tâm. Câu này trong Kinh Kim Cang của Phật giáo Bắc truyền viết tóm tắt rằng, khi tâm không nơi bám víu, thì tâm Niết bàn sẽ hiển lộ ra. Đó là pháp của đốn ngộ và đốn chứng.


.... o .....
Where do greed, anger, fear, and thoughts originate?
Written and translated by Nguyên Giác

   In Zen Buddhism, it is often stated that when a bright lamp is lit, the darkness of countless eons vanishes. This metaphor is further elucidated by the idea that when a practitioner perceives the light of the original mind—where there is nothing to cling to—countless negative karmas dissipate. How do the scriptures articulate this concept?

   Thus, Zen Buddhism asserts that the Buddha exists within the mind. There is no Buddha outside of it. When we refer to a Buddha outside the mind, we are merely speaking of a statue made of cement or wood. Anything external to the mind holds no value for the practitioner's journey.

   Vietnamese Zen history recounts that when King Trần Thái Tông (1218-1277) left the capital to become a monk in the mountains, he was instructed by the Trúuc m National Master: "There is no Buddha in the mountains; the Buddha exists only in the mind. When the mind is tranquil and aware, that is the True Buddha. If you come to realize this mind, you will instantly become a Buddha, without the need to search externally.

   Having been taught in this manner, King Trần Thái Tông returned to the capital and continued to reign as king with reluctance. For over ten years, whenever he had free time, the King gathered virtuous individuals to study Zen, inquire about the Dharma, and explore Mahayana sutras. He frequently read the Diamond Sutra, and one day, upon encountering the phrase, "When the mind is not attached to anything, the mind of Nirvana will appear," the king suddenly grasped the profound meaning of Zen.

   Later, King Trần Thái Tông utilized his knowledge to compose a text titled Thiền Tông Chỉ Nam. When National Master Trúc Lâm returned from Yên Tử Mountain to visit the capital, King Trần Thái Tông invited him to stay at Thắng Nghiêm Pagoda, where he was responsible for printing the sutras. Upon presenting the book Thiền Tông Chỉ Nam to the National Master, he read it and immediately praised, "The mind of the Buddhas is fully captured here. While printing the sutras, please also print this book to educate future generations."

   That is the Buddha within the mind. When the mind does not cling to anything, the state of Nirvana emerges. In other words, when the lamp is lit, the darkness of countless eons vanishes.

  A Vietnamese Buddhist verse contains the following lines:
Because sin originates in the mind, we should repent with our minds.
When the mind is pure, sin will vanish.
The phenomenon of sin disappearing and the pure mind are, in fact, both manifestations of emptiness.
That is true repentance.

   There are four Suttas in the Pali Canon and the Agamas that record the Buddha's answer to a yakkha's question about where greed, anger, fear, and thoughts come from. They are Snp 2.5, SN 10.3, SA 1314, and SA 1324.

The Buddha explained that greed, anger, preferences, aversions, fears, and thoughts all stem from a mind that clings to the self, much like the vines of desire that grow from the trunk of a banyan tree and subsequently entangle it. He stated that when a practitioner recognizes the origins of these afflictions, they will diminish, allowing the practitioner to navigate this challenging flood and avoid rebirth.

   By simply observing the origins of greed, anger, preferences, aversions, fears, and thoughts, one can witness their eventual dissolution.

   In the Dhammapada, there is a story about Minister Santati. While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha recited Verse 142 of the Dhammapada, which narrates the tale of Santati, the minister of King Pasenadi.

Once, after quelling a rebellion at the border, the official Santati returned to the capital. King Pasenadi was very pleased and rewarded him with enormous wealth and honor. Additionally, the king gifted the official a beautiful dancer to perform for seven days. Throughout this time, the official Santati became intoxicated with wine, the dancer's beauty, and her captivating performances.

   On the seventh day, the official rode his decorated elephant to the river to bathe. Along the way, he encountered the Buddha on his alms round. Being intoxicated, he merely bowed to the Buddha indifferently as a sign of respect. Noticing the Buddha's smile, Ananda inquired about the reason for it. The Buddha responded that the official would return to see him later that day, and after hearing a brief sermon, he would become an arahant and attain Nirvana.

According to the sutra, Santati and his entourage went to the riverbank, where they bathed, ate, drank, and thoroughly enjoyed themselves. In the evening, the minister and his entourage visited the garden to drink more and watch the dancer.    The dancer performed with all her might to please the minister. Suddenly, she collapsed, fell to the ground, and died, her eyes wide open and her mouth agape.

   The official was shocked and deeply saddened, recalling the teachings of the Buddha. He went to see the Buddha and shared his sorrow over the sudden death of the beautiful dancer. The official then asked the Buddha to help him overcome his grief and find peace of mind.

   The Buddha responded to the official, stating that the tears he had shed over the dancer's death throughout countless cycles of rebirth were greater in volume than all the water in the oceans combined. He then imparted the following teachings to the official.

   In the past, you have held onto things due to craving; let go of them. In the future, do not allow such clinging to arise in your mind. In the present moment, refrain from nurturing any attachment. Avoid clinging altogether. By doing so, craving will diminish in your mind, and you will come to realize Nibbana.

   After hearing the verse, the official attained Arahantship. Realizing that his lifespan was over, he informed the Buddha of his desire to enter Nirvana immediately. The Buddha consented. Santati ascended into the sky, and while meditating on fire, his entire body ignited in flames. His bone relics fell onto a clean cloth spread out by the monks, as instructed by the Buddha.

In the assembly, the monks asked the Buddha whether an official who had attained Nirvana while wearing full official regalia, yet could be considered a monk in the body of a Brahmin, could now be referred to as both a monk and a Brahmin. The Buddha responded that Santati could indeed be called both a monk and a Brahmin.

We can summarize the Buddha's teaching to Santati as follows: in all three times—past, present, and future—do not cling to anything in the mind. This statement from the Diamond Sutra of Northern Buddhism conveys that when the mind has nothing to cling to, the mind of Nirvana will manifest. This represents the method of sudden enlightenment and realization.
.
THAM KHẢO / Reference:
- Trần Thái Tông, Khóa Hư Lục: https://thuvienhoasen.org/a6695/03-tua-thien-tong-chi-nam
- Kinh Snp2.5:
Bản dịch Sujato: https://suttacentral.net/snp2.5/en/sujato
Bản dịch Mills: https://suttacentral.net/snp2.5/en/mills
- Kinh SN10.3:
Bản dịch Sujato: https://suttacentral.net/sn10.3/en/sujato
Bản dịch Minh Châu: https://suttacentral.net/sn10.3/vi/minh_chau
- SA1314, bản dịch Tuệ Sỹ & Đức Thắng: https://suttacentral.net/sa1314/vi/tue_sy-thang
- SA1324, bản dịch Tuệ Sỹ & Đức Thắng: https://suttacentral.net/sa1324/vi/tue_sy-thang
- Pháp Cú, Kệ 142: https://www.tipitaka.net/tipitaka/dhp/verseload.php?verse=142
.... o .....


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2010(Xem: 8792)
Chủ nhật vừa qua tôi hết sức vui mừng vì đã thuyết bài Pháp đầu tiên tại Singapore. Ðương nhiên khi nhìn thấy số thính chúng nhiệt tình mộ đạo như vậy và khi trông thấy giảng đường chật kín, có số người còn đứng tràn ra ngoài, tôi vô cùng phấn khởi, sau đó tôi bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân nào đưa đến một số thính chúng tham dự đông đảo nồng nhiệt như vậy.
27/10/2010(Xem: 7913)
Cuộc đời là những mâu thuẫn, ở đây tôi không nói những gì cao siêu mà nói về những kinh nghiệm sống của người Phật tử. Chúng ta sống như thế nào để cuộc đời được an lành tự tại, không bị đau khổ làm ray rứt.
27/10/2010(Xem: 10483)
Tên gọi của Đức Phật là «Thích-ca Mâu-ni» có nghĩa là «Bậc Tịch tĩnh trong họ Thích-ca», «Trí giả trầm lặng trong họ Thích-ca», chữ Phạn mauni có nghĩa là yên lặng. Phật còn có tên là «Mahamuni» : Maha là lớn, «Mahamuni» là «Bậc yên lặng Lớn lao» hay vị «Đại Thánh nhân của Yên lặng».
27/10/2010(Xem: 10176)
Tôn chỉ Phật giáo là chí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
27/10/2010(Xem: 12035)
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
27/10/2010(Xem: 7777)
Vì Sao Cần Phải Niệm Phật? Vì sao lúc bình thường chúng ta cần phải niệm Phật? Lúc bình thường chúng ta thường niệm Phật là để chuẩn bị cho lúc lâm chung. Thế thì tại sao không đợi đến lúc lâm chung rồi hãy niệm Phật? Tập quán là thói quen được huân tập qua nhiều ngày, nhiều tháng. Cho nên, nếu bình thường các bạn không có tập quán niệm Phật thì đến lúc lâm chung các bạn sẽ không nhớ ra là mình cần phải niệm Phật. Do đó, lúc bình thường mình cần phải học niệm Phật, tu Pháp-môn Tịnh Độ, đến lúc lâm chung mới không hoảng hốt, luống cuống, mà trái lại, sẽ an nhiên vãng sanh Thế Giới Cực-lạc!
25/10/2010(Xem: 7285)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
23/10/2010(Xem: 9421)
Từ hơn bốn mươi năm nay, chưa bao giờ Việt Nam đứng ra tổ chức một lễ Phật Đản lớn về tất cả mọi mặt: tôn giáo, văn hóa, xã hội, và về cả chính trị như lần này. Nói lớn về cả chính trị là bởi trong ba ngày vừa qua, thủ đô Hà Nội là thủ đô Phật giáo của thế giới.
23/10/2010(Xem: 10615)
Trong kinh Pháp Hoa có dạy: "Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mới xuất hiện ra đời, để mở bày, chỉ dạy chúng sanh giác ngộ và thể nhập vào tri kiến Phật". Giáo pháp của Phật như biển rộng rừng sâu, tuy nhiên cũng có thể tóm thâu trong bốn câu kệ: “Chư ác mạc tác Chúng thiện phụng hành Tự tịnh kỳ ý Thị chư Phật giáo”.
23/10/2010(Xem: 9479)
"Mưa dầm thấm sâu, sẽ giúp con cháu trong gia đình đến với đạo Phật, thực hành theo lời dạy của đức Phật một cách tự nhiên và bền vững. Điều quan trọng là tự thân của mỗi người cư sĩ Phật tử nên tự nổ lực tinh tiến tu học, cẩn thận ba nghiệp thân miệng ý, làm sao để trở thành một tấm gương sáng cho con cháu noi theo"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]