Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôn Sư Trọng Đạo, Nét Đẹp Tri Thức Và Nhân Văn

15/11/202308:55(Xem: 3324)
Tôn Sư Trọng Đạo, Nét Đẹp Tri Thức Và Nhân Văn

Tôn sư trọng đạo, nét đẹp tri thức và nhân văn
thiep-3

“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, một chữ cũng là Thầy, nửa chữ cũng là Thầy là câu lưu truyền để nói lên công ơn của những người Thầy đã dành cho chúng ta, dù nhiều hay ít, cũng là những nền tảng để mỗi người có được sự hiểu biết và phát triển theo hướng tích cực.

Tôn sư trọng đạo vốn là truyền thống cao đẹp, thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, trải qua bao đời, truyền thống này vẫn luôn được giữ gìn như một gốc rễ tạo nên nhân cách, đạo đức và kiến thức cho mỗi con người, bởi không ai lớn lên mà không cần đến người dẫn dắt, hướng dẫn, không ai tự nhiên tài giỏi, hiểu biết mà không có một người Thầy.

Do tính chất và mục đích tốt đẹp của ngày Hiến chương các nhà giáo quốc tế, theo đề nghị của ngành Giáo dục, ngày Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 gắn liền với lịch sử của tổ chức giáo giới tiến bộ trên thế giới. Năm 1946, một tổ chức quốc tế các nhà giáo tiến bộ được thành lập ở Paris lấy tên là FISE (Féderation International Syndicale des Enseignants - Liên hiệp quốc tế các Công đoàn Giáo dục). Năm 1949, tại Hội nghị quốc tế Vacsava, tổ chức FISE xây dựng một bản "Hiến chương các nhà giáo" gồm 15 chương. Nội dung chủ yếu là đấu tranh chống nền giáo dục tư sản, phong kiến; xây dựng nền giáo dục tiến bộ; bảo vệ những quyền lợi vật chất và tinh thần chính đáng của nghề dạy học và nhà giáo. Ngày 28 tháng 9 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 167 – HĐBT, lấy ngày 20 tháng 11 hàng năm là Ngày Nhà giáo Việt Nam.

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, truyền thống tôn sư trọng đạo được xem là nét đẹp đầy tính nhân văn, mang đậm bản sắc dân tộc. Trong xã hội ngày xưa, người Thầy có vị trí rất quan trọng, chỉ đứng sau nhà Vua, việc dạy học luôn được nhiều triều đại Vua Chúa quan tâm, mỗi thiên tử phải “văn võ song toàn”, vì vậy việc học hành, đỗ đạt thời đó được xem là vinh dự cho Tổ tiên gia tộc, người Thầy luôn có một vị thế được kính trọng bởi tâm huyết và sự cần mẫn truyền dạy cho bao thế hệ, đào tạo ra nhiều nhân tài, từ đó tôn sư trọng đạo trở thành nền tảng “Nhân – lễ - nghĩa” cho dân tộc Việt Nam qua ngàn năm văn hiến.

Chính vì công ơn to lớn của người Thầy mà kho tàng ca dao tục ngữ trong nước cũng như thế giới luôn đề cao và tôn vinh đóng góp của người gieo mầm tương lai qua những câu nói như: “Muốn sang phải bắc cầu Kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy Thầy”.

Hay như câu nói của Victor Hugo: “He who opens a school door, closes a prison” - Người Thầy là người mở ra cánh cửa một ngôi trường và đóng lại cánh cửa một nhà tù.

Nhà lập quốc Hoa Kỳ Benjamin Franklin có câu: “Genius without education is like silver in the mine” - Thiên tài không có học hành, cũng giống như bạc còn trong mỏ.

A good teacher is like a candle – it consumes itself to light the way for others” (Khuyết Danh) - Một người thầy tốt giống như ngọn nến, đốt chính mình để soi sáng con đường cho những người khác.

Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể thấy từ ngàn xưa cho đến thời đại ngày nay, những đóng góp của người Thầy luôn là chân lý không ai có thể phủ nhận, và con người có thể phát triển cả về kiến thức lẫn nhân cách, đó là khi chúng ta biết thương yêu, tôn kính người Thầy, vì nếu không có Thầy, không ai có thể trở thành một người thành công và hiểu biết.

Tất cả mọi nền tảng từ truyền thống cho đến sự đột phá, tân tiến trong xã hội đều không thể vắng mặt người truyền dạy, vì thế giáo dục luôn là lĩnh vực trọng điểm của mọi quốc gia, và dù khoa học có phát triển đến đâu, cũng không thể phủ nhận sự đóng góp và tầm quan trọng của người hướng dẫn.

Ngày nay, người Thầy không chỉ gói gọn trong phạm vi ngành giáo dục, không chỉ dành riêng cho người giảng dạy kiến thức trên ghế nhà trường mà người Thầy còn được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là những người đã có công khai sáng, chỉ dẫn, dìu dắt cho chúng ta vượt qua những khó khăn thử thách, vượt qua những đau khổ, bế tắc trong đời sống tinh thần, người Thầy là người có thể xuất hiện ở bất kỳ nơi đâu, trong lĩnh vực nào khi đó là người mang lại cho chúng ta những nhận thức đúng đắn, những kinh nghiệm chuyên môn, người có thể giúp chúng ta buông bỏ những góc khuất sai lầm, những khuyết điểm bản thân để trở nên mạnh mẽ, nghị lực hơn trong từng suy nghĩ, từ đó giúp chúng ta trở thành người hữu ích.

Trong nhà Phật, tinh thần tôn sư trọng đạo luôn được nhắc nhở và đề cao bởi công đức của người Thầy mang đến cho những người con Phật là mang đến một đời sống tâm linh hướng thiện, thoát khỏi vô minh, thoát khỏi những thú vui trần tục tầm thường, là hướng mỗi người biết nhìn sâu vào nội tâm mình để chuyển hóa những hữu lậu thành vô lậu, mở ra cho mỗi chúng sinh một con đường giải thoát khỏi những khổ đau, giúp chúng sinh có một đời sống thiểu dục tri túc, nội tâm an lạc. Người Thầy trong đạo Phật đã đóng một vai trò rất lớn trong việc xây dựng nhân sinh con người theo tinh thần “Bi – trí – dũng”.

Đức Phật chính là người Thầy vĩ đại của nhân loại bởi Người không chỉ là một người Thầy đã hướng dẫn cho đệ tử bước đi trên con đường tu học mà còn dành tình thương thánh thiện, sự quan tâm từ mẫn cho các đệ tử của mình.

Trong kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt (Sigàlovàda sutta) thuộc Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikayà), Đức Phật cũng dạy cho thanh niên Bà La Môn Thi Ca La Việt (Singàlaka) về tư cách của người Thầy đối với học trò và học trò đối với Thầy tương ứng với tư cách lễ bái phương Nam như sau: 

“Này gia chủ tử, có năm cách, đệ tử phụng dưỡng các bậc Sư trưởng như phương Nam: Đứng dậy để chào, hầu hạ Thầy, hăng hái học tập, tự phục vụ Thầy, chú tâm học hỏi nghề nghiệp. Này Gia chủ tử, được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách như vậy, các bậc Sư trưởng có lòng thương tưởng đến các đệ tử theo năm cách: Huấn luyện đệ tử những gì mình đã được khéo huấn luyện; dạy cho bảo trì những gì mình được khéo bảo trì; dạy cho thuần thục các nghề nghiệp; khen đệ tử với các bạn bè quen thuộc; bảo đảm nghề nghiệp cho đệ tử về mọi mặt. Này Gia chủ tử, như vậy là bậc Sư trưởng được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách và Sư trưởng có lòng thương tưởng đến đệ tử theo năm cách. Như vậy phương Nam được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi”.

Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikayà), Đức Phật đã nói: “Người khéo thuyết giảng thì mang lại an lạc cho chư Thiên và nhân loại, vụng thuyết thì chỉ mang đau khổ đến cho tất cả chúng sanh”.

Từ dòng chảy lịch sử thời nho giáo đến tận ngày nay, từ quan điểm về mặt truyền thống, xã hội đến quan điểm trong Phật giáo, người Thầy luôn là bậc được tôn kính, và người trò luôn phải biết nhớ đến công ơn của người đã dạy dỗ, hướng dẫn cho mình, đó là một nét đẹp quý báu về tình nghĩa Thầy – Trò mà bất cứ ai cũng ghi khắc trong tâm. Và để hình ảnh người Thầy luôn là biểu tượng thiêng liêng cao đẹp thì người Thầy giáo cần nuôi dưỡng đức hy sinh, sự cống hiến chân thành, luôn tự học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như rèn luyện phẩm chất đạo đức chuẩn mực để mãi là những người Thầy, những tấm gương vĩ đại trong lòng những thế hệ học sinh.

Có thể nói, “Tôn sư trọng đạo” dù ở ngày xưa hay ở ngày nay, dù ở Việt Nam hay ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, vẫn luôn là một nét đẹp không gì có thể thay thế được bởi người Thầy là người mang lại nền tảng tri thức và nhân cách vô cùng to lớn như Nhà giáo Chu Văn An đã từng nói “Ta chưa từng thấy nước nào coi nhẹ sự học mà khá lên được”.

Là người mang trong mình nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng, niềm vui của người Thầy chính là nhìn thấy sự tiến bộ, thành đạt của học trò và bằng sự thâm trầm lặng lẽ, người Thầy như một người lái đò miên mật đưa học sinh đến bờ tri thức, người Thầy trong đạo Phật còn là người giúp Phật tử, chúng sinh nuôi dưỡng những hạt từ bi để từ đó có một đời sống an lạc, thiện lành và tinh tấn.

Nhân kỷ niệm 41 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11, chúng ta, những người học trò, xin được trao gửi lòng tri ân và những lời chúc đầy thương mến đến những người Thầy đã truyền dạy cho chúng ta nhiều điều trong cuộc sống, giúp chúng ta có được hành trang để lao động, sáng tạo, cống hiến và sống một đời sống tốt đạo đẹp đời.                

Phật tử An Tường Anh (Võ Đào Phương Trâm)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/01/2021(Xem: 4842)
Vương quốc Phật giáo Bhutan với diện tích và dân số khiêm tốn trên Himalaya đã báo cáo có ca COVID-19 đầu tiên tử vong, khoảng 10 tháng sau khi ca đầu tiên phát hiện Viruscorona, và cố gắng kiểm soát dịch bệnh bằng cách phong tỏa phần lớn đất nước phụ thuộc vào du lịch. Trong một thông báo đưa ra vào cuối ngày thứ Năm, ngày 7 vừa qua, Bộ Y tế Bhutan cho biết một người đàn ông 34 tuổi đã tử vong tại một bệnh viện ở thủ đô Thimphu do Covid-19, tiền sử có bệnh nền như gan mãn tính và suy thận, có kết quả xét nghiệm dương tính.
09/01/2021(Xem: 7445)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6620)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 6207)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 6125)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7680)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4742)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9754)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5875)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5450)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]