Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Di tích Ban Phát Thanh Phật Giáo Đà Lạt

01/05/202310:23(Xem: 4519)
Di tích Ban Phát Thanh Phật Giáo Đà Lạt

Di tích Ban Phát Thanh Phật Giáo Đà Lạt

 

    Ngày 18 tháng 3 năm Duy-Tân thứ 10 (20-04-1916), Hội Đồng Nhiếp Chính Nam-Triều Huế ra thông báo: Dụ thành lập thị trấn Dalat.

      Đồng thời ngày 30-05-1916: Khâm Sứ Pháp Triều J.E Charles cũng ký Nghị Định thành lập thị trấn Dalat.

       Sau đó ngày 31-10-1920: Toàn Quyền Maurice Long của Liên-Bang Đông-Dương (Việt Nam + Lào + Cao Miên) chọn Dalat làm nơi nghỉ dưỡng nên ra Nghị Định:

1)       Khu tự trị trên Cao Nguyên LangBian, đất đai là của thị trấn Dalat.

2)       Nay thành lập: Sở Nghỉ Dưỡng LangBian và Du Lịch Nam Trung Kỳ

                               

               Do đó, năm 1925 thị trấn Dalat mới chiêu mộ được 2242 người để quản lý, kiến thiết, xây dựng và phục vụ thị trấn.

               Từ Dụ thành lập thị trấn Dalat của Nam Triều, Triều đình Huế bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Dụng vào Dalat làm Quản Đạo đầu tiên cùng với đoàn nhân viên tùy tùng. Nay di tích còn lại là cầu Ông Đạo;  Dinh Quản Đạo hiện nay là cửa hàng Lotte; và đồn lính tùy tùng tọa lạc trên đồi đường Lê Thị Hồng Gấm.

               Thời gian cùng tạo lập thị trấn Dalat có: Bên Pháp Triều là ông Quignac và bên Nam Triều là ông Nguyễn Văn Dụng. Do đó mà người miền Trung vào Dalat rất sớm và chiếm đa phần.

               Thời kỳ đó, phong trào nghiên cứu và tu học Phật Giáo đang phát triển theo Tịnh Độ Tông, xuất phát từ các Chùa Từ Đàm, Chùa Tường Vân, Chùa Từ Hiếu thành phố Huế (hoặc báo Thông Thiên Học) với khuynh hướng thay thế Khổng Giáo và Lão Giáo.

               Trong khi đó thành phố Dalat mới có Chùa Linh Quang tọa lạc cuối đường Hai Bà Trưng, do Hòa Thượng Thích Minh Cảnh Trú Trì và trường Tuệ Quang do Thượng Tọa Thích Thiện Tấn làm Hiệu Trưởng và Đại Đức Thích Nhật Hạnh là Giám Học.

               Vì thành phố Dalat là trung tâm Tự Trị của người Pháp, do đó người Việt Nam còn thưa thớt, người bản địa còn lạc hậu, khó khăn về mọi mặt, tín ngưỡng chưa có chủ đích... Các vị tu sĩ Thiên Chúa Tây Phương tự nguyện đi sâu vào các buôn, ấp, rừng núi xa xôi để giúp đỡ dân bản địa và truyền giáo (điển hình như: Père Le Rois).

               Cùng với quan điểm, cảm nhận này, các vị tu sĩ Phật Giáo, các vị bô lão, các vị cố cựu Dalat phát nguyện chí tâm chung sức xây dựng cho thành phố Dalat một ngôi Chùa theo nét cổ kính Phật Giáo, lý tưởng tâm linh cho các Phật Tử đời này và hậu duệ các đời sau ...

                Do vậy năm 1938 các vị như bác Nguyễn Văn Tiếng, bác Võ Đình Dung, Bác sĩ Lê Đình Thám, bác Nguyễn Vỹ (báo Dân Ta), bác Nguyễn Hữu Phú, bác Nguyễn Văn Tiêu, bác Ưng Quyền, bác Lê Xuân Huệ, bác Nguyễn Thoại Chi, bác Huỳnh Ngọc Suyền, bác Hai Soạn, bác Tích, bác Hiền, bác Cự, bác Sáu Còm, bác Xu Tùng, bác Phạm Xuân Gia, bác Nguyễn Sĩ Duyến, bác Đồng Văn Cảnh v.v... đã tích cực tham gia xây dựng ngôi Chùa Linh Sơn từ năm 1938 và đến năm 1940 thì hoàn thành.

                 Đây là ngôi Chùa hiển thị được nét Phật Giáo đầu tiên tại thành phố Dalat, mà cũng là chùa Tỉnh Hội. Là nơi mà Phật Tử Dalat, Phật Tử Tỉnh Hội, Phật Tử các nơi đến Dalat cần có để chiêm bái, để phát triển tu học Phật Pháp và phổ biến tâm linh Tịnh Độ.

                 

                Nhưng từ năm 1940 cho đến năm 1956, người Việt Nam ở Dalat vẫn còn hạn chế vì ảnh hưởng Dalat là trung tâm Tự Trị và là nơi nghỉ dưỡng của người Pháp. Vì vậy nên Ôn Bích Nguyên, Thầy Mãn Giác và các bác trong ban Tri Sự quyết định thỉnh Thầy Thích Thiện Châu (đang điều hành tu viện Phật Giáo Nha Trang) lên Dalat thuyết giảng hằng tuần vào tối thứ Bảy. Nhưng từ Nha Trang đi Dalat chưa có xe đò. Đường bộ từ Tháp Chàm lên Dalat còn thô sơ. Đường sắt còn hạn chế, mỗi ngày chỉ có một chuyến. Do đó Thầy phải tự lái xe Traction từ Nha Trang lên Dalat một mình, rồi tự lái xe về nên rất là nhiêu khê.

                

                Trong khi đó Thầy phát hiện TP Dalat đang có đài Phát Thanh hoạt động hằng ngày vào chiều và tối. Máy móc thiết lập là của Pháp và các tỉnh lân cận đều bắt được vì cùng một tần số (Frequency) và ở độ cao 1550m so với mặt nước biển. Từ ý tưởng phổ biến, phát tán tài liệu tu học Phật Giáo đến mọi người, mọi giới, mọi nơi, Thầy đã đề nghị ban Tri Sự chùa Linh Sơn thành lập ban Phát Thanh Phật Giáo và được phát trên Đài Phát Thanh Dalat. Thầy sẽ cung ứng và gởi lên Dalat các tài liệu và giáo lý Phật Giáo để phối hợp với các tài liệu mà các miền, các tỉnh cung ứng cho chùa Linh Sơn Dalat để phát thanh.

                  Đây là một trong những phương tiện nghiên cứu và tu học Phật Giáo mà mọi người, mọi nhà, mọi nơi đều tiếp thu được. Kết quả trong cuộc họp về sáng kiến nầy tại chùa Linh Sơn, Giáo Hội Chùa và các Phật Tử đều hoan nghênh, tán thành ý tưởng mới lạ này của Thầy Thích Thiện Châu. Đồng thời thỉnh Thầy Mãn Giác làm Trưởng ban Phát Thanh, Thầy Thích Thiện Châu làm Cố vấn, anh Nguyễn Hữu Thạnh làm Phó ban và điều hành Phát Thanh.

               Ngay trong buổi họp đã có ý kiến là Phát Thanh liên tục hằng tuần mà mục đích là tín ngưỡng và tu học. Nhưng như vậy nội dung thể hiện chỉ có các tài liệu về Phật Giáo, Phật Pháp và giáo lý thì có vẻ khô khan. Do đó đã có đề nghị nên đưa Ngâm Thơ và Nhạc Phật Giáo vào giữa các tiết mục để tạo buổi phát thanh sinh động và phong phú hơn. Đồng thời các bài nhạc Phật Giáo sẽ đi vào tiềm thức của các em thanh thiếu nhi và oanh vũ. Thưa đó cũng là một phương thức truyền giáo và tu học vậy!

               Mùa hè năm 1956 (trước khi đoàn quán GĐPT bị cháy) thì Ban Phát Thanh Phật Giáo Dalat được thành hình và được phép phát thanh hằng tuần vào chiều ngày thứ Hai lúc 18 giờ 15 trên Đài Phát Thanh Dalat.
Dai-Phat-Thanh-Dalat

               Buổi phát thanh đầu tiên có Thầy Thiện Châu nán lại để hướng dẫn và giao tiếp với Đài. Tuy vậy các anh chị em trong Ban Phát Thanh đều bỡ ngỡ và hồi hộp với 4 lý do vì đây là phương thức phát thanh trực tiếp:

               1. Ban Phát Thanh phải chuyên nghiệp vì Phát Thanh TRỰC TIẾP lên sóng, không được ngưng để sửa sai, hoặc muốn phát lại. Giọng đọc phải sắc bén, rõ ràng, không được ho. Mọi sự điều hành đều ra dấu bằng tay.

               2. Nhưng các anh chị tham gia đều được tuyển từ các ngành nghề khác nhau, không chuyên nghiệp, thì giờ rảnh rỗi không đồng nhất.

               3. Thời kỳ đó chưa có phương tiện thu trước rồi phát sau. Vì lý do chưa có đĩa nhựa 45 tours, chưa có băng AKAI, chưa có băng cassette hay USB. Mà chỉ có ĐĨA THAN của Pháp rất đắt, chỉ thu được duy nhất một lần với âm thanh rất hạn hẹp.

               4. Sau buổi phát thanh thứ hai thì anh Nguyễn Văn Sắc, anh Nguyễn Ấn, anh Hoàng Thuyên xin rút vì thì giờ phát thanh ảnh hưởng đến việc làm ở Nha Địa Dư, chỉ có thể tham gia những ngày lễ lớn hoặc ngày Chủ nhật.

Như vậy Ban Phát Thanh chỉ còn anh Nguyễn Hữu Thạnh là biên tập + điều hành và giới thiệu; chị Yến Lương là xướng ngôn viên và ngâm thơ.

               Ban nhạc còn lại: anh Nguyễn Văn Thành (accordeon), anh Trần Ngọc Dần (mandoline), anh Miện (piano), anh Mão (Ngô Quyền: guitar)
Ban-nhac-2

               Đợt I: Ban hát Nam: anh Huân, anh Ngô Nghĩa, anh Lân, anh Hội, anh Mùi, anh Trường

                Ban hát Nữ: chị Yến Lương, chị Mộng Hoa, chị Mộng Ngân, chị Vân (Nguyễn T Phương), chị Vân (M.Mạng), chị Nguyệt (Ng Biểu), chị Mỳ (Ng Trỗi)

               Đợt II: Sau một thời gian, các anh và các chị phải rời Ban Phát Thanh để đi các tỉnh khác làm việc hoặc lập gia đình v.v… Trong khi đó Ban Phát Thanh lại được bổ sung anh Lê Uyên Phương (violin). Hát: chị Bích Đào, chị Tuyết Anh, chị Lân Anh, chị Thanh (Du Sinh), chị Loan (PĐ Phùng), chị Tâm (ĐT Điểm), chị Trang (M Mạng).

Đợt III: Phối hợp Phát Thanh có:

                  - Bác Chỉ (PN Lão) Gia trưởng Gia Đình Phật Tử Dalat

                  - Bác Thụ (Du Sinh), cô Vân (PĐ Phùng) - ban Từ Thiện

                  - Thầy Quảng Thành, Thầy Phạm Thiên Thư: Tuyên Úy Phật Giáo

Đợt IV: Thời sự biến chuyển của tháng 4 năm 1975:

Gia đình anh Lê Uyên Phương chuẩn bị xuất ngoại thì gia đình anh Bửu Ấn từ Pleiku lại về Dalat và nhiệt tình sinh hoạt cùng với anh chị em trong Ban Phát Thanh Phật Giáo. Đồng thời tăng cường các anh chị như: Thầy giáo Phong (danh ca bài Bông Hồng cái áo), anh Thuyết, anh Hỷ, anh Hùng (N Hàng), anh Thắng, anh Phong (Ngô Quyền), cô Giáo Hà (danh ca bài Quán Thế Âm Bồ Tát), chị Đăng, chị Châu, chị Huệ, chị Hồng, chị Cúc để củng cố, lưu hậu. Do đó phải thu vào băng và chuyển ra đĩa để phát huy nhạc Phật Giáo Việt Nam. Đồng thời phải chuyển danh xưng là Ban "Nhạc Lễ". Một thời gian sau đó, để hợp thức với thời thế, Ban Văn Nghệ đổi tên là Ban Phát Thanh, đổi tiếp là Ban Lễ Nhạc và nay là Ban Kinh Nhạc.

                             Ban-nhac

Như vậy, Ban Phát Thanh Phật Giáo Dalat Việt Nam duy trì được 20 năm và thực hiện liên tục là nhờ sự nhiệt tình giúp đỡ của bác Minh, Trưởng đài và cũng là người điều hành chương trình phát thanh.

Diễn tiến các buổi Phát Thanh Phật Giáo Dalat:

                   Hằng tuần:

·      Nhóm I (từ năm 1956 đến tháng 4/1975: 20 năm)

                              Cứ vào khoảng 17:30 mỗi chiều thứ Hai: Các anh chị lớn tự động lên Đài Phát Thanh với phương tiện tự túc cùng nhạc cụ cá nhân. Riêng anh Thành ôm thùng đàn Accordeon 20 kg leo lên 96 bật thang thì sát giờ phát thanh.

·        Nhóm II: cũng vào khoảng giờ nầy thì chiếc xe traction Familiale đen của bác Ba Điện lái đi cùng với anh Thạnh đến cổng trường Bùi Thị Xuân đón các em qua Đài Phát Thanh.

                                             Thực Hiện Phát Thanh 

1)   Mở đầu là 3 tiếng chuông chùa âm vang từ phòng điều hành của Đài Phát Thanh với giọng phát ngôn miền bắc trầm ấm của bác Minh, Trưởng đài:

“Đây là buổi Phát Thanh Phật Giáo thành phố Dalat VN.  Được phát thanh từ Đài Phát Thanh Dalat vào lúc 18 giờ 15 vào ngày thứ Hai hằng tuần”

 

Ngay sau đó là tiếng Nhạc mở đầu của bài Phật Giáo Việt Nam được trỗi lên và đồng hát bài hát truyền thống: Phật Giáo Việt Nam.

 

2)       Liên tục chương trình là giọng giới thiệu trầm tư đạo hạnh của anh Nguyễn Hữu Thạnh với tin tức Phật Giáo, giáo lý Phật Giáo, trích dẫn các mục, các Phật sự mà chư Phật, chư vị Bồ Tát đã thể hiện trên đời nầy …

3)       Tiếp theo là một bài hát âm thanh hữu sắc Phật Giáo (trong 528 bài nhạc Phật Giáo)

4)       Tiếp đến là tin tức Phật sự, tin tức từ thiện, tin tức sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử Việt Nam v.v...

5)       Với giọng ngâm thơ sắc bén mà ngọt ngào của chị Yến Lương qua các bài thơ tôn vinh, đề cao, khuyến tu Phật đạo của các vị tiền bối.

6)       Cuối chương trình là các bài hát: Mừng Đản Sanh (trong mùa Đản Sanh), hay bài Lạy Phật con trở về, hoặc Quán Thế Âm Bồ Tát v.v...

 

Trong mùa Vu Lan thì kết thúc bài Vọng Vu Lan, hoặc bài Lòng Từ Muôn Thuở, hay bài Bông Hồng Cài Áo v.v…

 

Nếu nói đến Phát Thanh thì phải gợi nhớ đến Phóng Thanh. Thưa quý vị, trong đời sống nhiêu khê vất vả chỉ vì muốn tạo dựng cuộc sống tốt đẹp. Nhưng cũng vì sự nhiêu khê vất vả đó thể quên đi việc tạo dựng đời sống tâm linh tốt đẹp! Do dó, cứ đến các buổi lễ lớn của Phật Giáo: Ban Phát Thanh Phật Giáo đến ty Thông Tin Văn Hóa Tuyên Đức xin ông Phạm Gia Triếp (là Trưởng ty) và ông Bửu Tại (là Phó ty) mượn chiếc xe Radio-Car (trong xe đã trang bị đầy đủ: máy phát điện, máy amplie và dụng cụ Phóng Thanh) cùng với bác Trần Văn Nỏn là kỷ thuật viên và cũng là tài xế. Cứ đúng 5 giờ sáng của các buổi lễ lớn là xe Radiao-Car có mặt tại chùa Linh Sơn Dalat.

 

    Trên xe: băng ghé trước, bên trái là bác Nỏn, ở giữa là anh Thạnh cầm micro Phóng Thanh, bên mặt là anh Thành với cây đàn accordeon. Sau băng ghế nầy là 3 ca Nữ ngồi co ro trong kẹt thùng Máy Phát Thanh và máy phát điện. Trên thùng máy chiếm sát trần xe là 3 ca Nam nằm sấp trên thùng máy để hát. Thưa đây là ca đoàn hy hữu của ban Phát Thanh + Phóng Thanh Phật Giáo Dalat.

 

    Xe Radio-Car Phóng Thanh nầy được điều động đến các Khuông Hội Phật Giáo trong thành phố Dalat để thỉnh mời, động viên các Phật Tử đến tham dự buổi lễ tại Lễ Đài Phật Giáo chùa Linh Sơn Dalat.

     Thưa quý vị: “Ngày xưa, gió thổi qua cây Đàn Không Hầu đã chuyển thành sức mạnh tâm linh và âm vang kỳ diệu như thúc gọi về Nguồn Sáng Tâm Linh để qua sông và đạt đạo.”

 

Ngày nay, đã trải qua 65 năm tâm đạo, Đài Phát Thanh Dalat trên nóc Hotel Du Parc với 96 bậc thang nay vẫn còn đó. Làn sóng Phát Thanh Phật Giáo nay đã tan biến vào mây khói dưới bầu trời xanh Dalat thơ mộng. Âm vang Phóng Thanh Phật Giáo trên xe Radio-Car nay đã hòa tan vào sương lạnh Dalat quý yêu. Nhưng dư âm Phát Thanh và Phóng Thanh Phật Giáo Dalat vẫn còn lắng đọng trong tâm tư người Phật Tử.

 

Với nguyện vọng lưu hậu di tích Ban Phát Thanh Phật Giáo GĐPT Dalat Việt Nam. Thực hiện liên tục hằng tuần từ năm 1956 cho đến tháng 4 năm 1975. Nay 2021, Thanh Huyền xin ghi lại để tưởng niệm Hương Linh anh Nguyễn Hữu Thạnh và quý anh chị trong Ban đã quá vãng.


Nam Mô A DI Đà Phật

Tâm Viên (Thanh Huyền)



Một số bài hát do
Ban Phát Thanh Phật Giáo Đà Lạt thực hiện.

Xin mời quý vị lắng nghe

01. Trầm Hương Đốt

02. Ngày Vía Đản Sanh

03. Ngày Huy Hoàng

04. Mừng Đản Sanh

05. Tụng Ca Mẹ

06. Mục Kiền Kiên

07. Bông Hồng Cài Áo

08. Mẹ

09. Quán Thế Âm Bồ Tát
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5613)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5529)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6935)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4324)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9159)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5494)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5125)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5717)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6210)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5225)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]