Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Di tích Ban Phát Thanh Phật Giáo Đà Lạt

01/05/202310:23(Xem: 4507)
Di tích Ban Phát Thanh Phật Giáo Đà Lạt

Di tích Ban Phát Thanh Phật Giáo Đà Lạt

 

    Ngày 18 tháng 3 năm Duy-Tân thứ 10 (20-04-1916), Hội Đồng Nhiếp Chính Nam-Triều Huế ra thông báo: Dụ thành lập thị trấn Dalat.

      Đồng thời ngày 30-05-1916: Khâm Sứ Pháp Triều J.E Charles cũng ký Nghị Định thành lập thị trấn Dalat.

       Sau đó ngày 31-10-1920: Toàn Quyền Maurice Long của Liên-Bang Đông-Dương (Việt Nam + Lào + Cao Miên) chọn Dalat làm nơi nghỉ dưỡng nên ra Nghị Định:

1)       Khu tự trị trên Cao Nguyên LangBian, đất đai là của thị trấn Dalat.

2)       Nay thành lập: Sở Nghỉ Dưỡng LangBian và Du Lịch Nam Trung Kỳ

                               

               Do đó, năm 1925 thị trấn Dalat mới chiêu mộ được 2242 người để quản lý, kiến thiết, xây dựng và phục vụ thị trấn.

               Từ Dụ thành lập thị trấn Dalat của Nam Triều, Triều đình Huế bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Dụng vào Dalat làm Quản Đạo đầu tiên cùng với đoàn nhân viên tùy tùng. Nay di tích còn lại là cầu Ông Đạo;  Dinh Quản Đạo hiện nay là cửa hàng Lotte; và đồn lính tùy tùng tọa lạc trên đồi đường Lê Thị Hồng Gấm.

               Thời gian cùng tạo lập thị trấn Dalat có: Bên Pháp Triều là ông Quignac và bên Nam Triều là ông Nguyễn Văn Dụng. Do đó mà người miền Trung vào Dalat rất sớm và chiếm đa phần.

               Thời kỳ đó, phong trào nghiên cứu và tu học Phật Giáo đang phát triển theo Tịnh Độ Tông, xuất phát từ các Chùa Từ Đàm, Chùa Tường Vân, Chùa Từ Hiếu thành phố Huế (hoặc báo Thông Thiên Học) với khuynh hướng thay thế Khổng Giáo và Lão Giáo.

               Trong khi đó thành phố Dalat mới có Chùa Linh Quang tọa lạc cuối đường Hai Bà Trưng, do Hòa Thượng Thích Minh Cảnh Trú Trì và trường Tuệ Quang do Thượng Tọa Thích Thiện Tấn làm Hiệu Trưởng và Đại Đức Thích Nhật Hạnh là Giám Học.

               Vì thành phố Dalat là trung tâm Tự Trị của người Pháp, do đó người Việt Nam còn thưa thớt, người bản địa còn lạc hậu, khó khăn về mọi mặt, tín ngưỡng chưa có chủ đích... Các vị tu sĩ Thiên Chúa Tây Phương tự nguyện đi sâu vào các buôn, ấp, rừng núi xa xôi để giúp đỡ dân bản địa và truyền giáo (điển hình như: Père Le Rois).

               Cùng với quan điểm, cảm nhận này, các vị tu sĩ Phật Giáo, các vị bô lão, các vị cố cựu Dalat phát nguyện chí tâm chung sức xây dựng cho thành phố Dalat một ngôi Chùa theo nét cổ kính Phật Giáo, lý tưởng tâm linh cho các Phật Tử đời này và hậu duệ các đời sau ...

                Do vậy năm 1938 các vị như bác Nguyễn Văn Tiếng, bác Võ Đình Dung, Bác sĩ Lê Đình Thám, bác Nguyễn Vỹ (báo Dân Ta), bác Nguyễn Hữu Phú, bác Nguyễn Văn Tiêu, bác Ưng Quyền, bác Lê Xuân Huệ, bác Nguyễn Thoại Chi, bác Huỳnh Ngọc Suyền, bác Hai Soạn, bác Tích, bác Hiền, bác Cự, bác Sáu Còm, bác Xu Tùng, bác Phạm Xuân Gia, bác Nguyễn Sĩ Duyến, bác Đồng Văn Cảnh v.v... đã tích cực tham gia xây dựng ngôi Chùa Linh Sơn từ năm 1938 và đến năm 1940 thì hoàn thành.

                 Đây là ngôi Chùa hiển thị được nét Phật Giáo đầu tiên tại thành phố Dalat, mà cũng là chùa Tỉnh Hội. Là nơi mà Phật Tử Dalat, Phật Tử Tỉnh Hội, Phật Tử các nơi đến Dalat cần có để chiêm bái, để phát triển tu học Phật Pháp và phổ biến tâm linh Tịnh Độ.

                 

                Nhưng từ năm 1940 cho đến năm 1956, người Việt Nam ở Dalat vẫn còn hạn chế vì ảnh hưởng Dalat là trung tâm Tự Trị và là nơi nghỉ dưỡng của người Pháp. Vì vậy nên Ôn Bích Nguyên, Thầy Mãn Giác và các bác trong ban Tri Sự quyết định thỉnh Thầy Thích Thiện Châu (đang điều hành tu viện Phật Giáo Nha Trang) lên Dalat thuyết giảng hằng tuần vào tối thứ Bảy. Nhưng từ Nha Trang đi Dalat chưa có xe đò. Đường bộ từ Tháp Chàm lên Dalat còn thô sơ. Đường sắt còn hạn chế, mỗi ngày chỉ có một chuyến. Do đó Thầy phải tự lái xe Traction từ Nha Trang lên Dalat một mình, rồi tự lái xe về nên rất là nhiêu khê.

                

                Trong khi đó Thầy phát hiện TP Dalat đang có đài Phát Thanh hoạt động hằng ngày vào chiều và tối. Máy móc thiết lập là của Pháp và các tỉnh lân cận đều bắt được vì cùng một tần số (Frequency) và ở độ cao 1550m so với mặt nước biển. Từ ý tưởng phổ biến, phát tán tài liệu tu học Phật Giáo đến mọi người, mọi giới, mọi nơi, Thầy đã đề nghị ban Tri Sự chùa Linh Sơn thành lập ban Phát Thanh Phật Giáo và được phát trên Đài Phát Thanh Dalat. Thầy sẽ cung ứng và gởi lên Dalat các tài liệu và giáo lý Phật Giáo để phối hợp với các tài liệu mà các miền, các tỉnh cung ứng cho chùa Linh Sơn Dalat để phát thanh.

                  Đây là một trong những phương tiện nghiên cứu và tu học Phật Giáo mà mọi người, mọi nhà, mọi nơi đều tiếp thu được. Kết quả trong cuộc họp về sáng kiến nầy tại chùa Linh Sơn, Giáo Hội Chùa và các Phật Tử đều hoan nghênh, tán thành ý tưởng mới lạ này của Thầy Thích Thiện Châu. Đồng thời thỉnh Thầy Mãn Giác làm Trưởng ban Phát Thanh, Thầy Thích Thiện Châu làm Cố vấn, anh Nguyễn Hữu Thạnh làm Phó ban và điều hành Phát Thanh.

               Ngay trong buổi họp đã có ý kiến là Phát Thanh liên tục hằng tuần mà mục đích là tín ngưỡng và tu học. Nhưng như vậy nội dung thể hiện chỉ có các tài liệu về Phật Giáo, Phật Pháp và giáo lý thì có vẻ khô khan. Do đó đã có đề nghị nên đưa Ngâm Thơ và Nhạc Phật Giáo vào giữa các tiết mục để tạo buổi phát thanh sinh động và phong phú hơn. Đồng thời các bài nhạc Phật Giáo sẽ đi vào tiềm thức của các em thanh thiếu nhi và oanh vũ. Thưa đó cũng là một phương thức truyền giáo và tu học vậy!

               Mùa hè năm 1956 (trước khi đoàn quán GĐPT bị cháy) thì Ban Phát Thanh Phật Giáo Dalat được thành hình và được phép phát thanh hằng tuần vào chiều ngày thứ Hai lúc 18 giờ 15 trên Đài Phát Thanh Dalat.
Dai-Phat-Thanh-Dalat

               Buổi phát thanh đầu tiên có Thầy Thiện Châu nán lại để hướng dẫn và giao tiếp với Đài. Tuy vậy các anh chị em trong Ban Phát Thanh đều bỡ ngỡ và hồi hộp với 4 lý do vì đây là phương thức phát thanh trực tiếp:

               1. Ban Phát Thanh phải chuyên nghiệp vì Phát Thanh TRỰC TIẾP lên sóng, không được ngưng để sửa sai, hoặc muốn phát lại. Giọng đọc phải sắc bén, rõ ràng, không được ho. Mọi sự điều hành đều ra dấu bằng tay.

               2. Nhưng các anh chị tham gia đều được tuyển từ các ngành nghề khác nhau, không chuyên nghiệp, thì giờ rảnh rỗi không đồng nhất.

               3. Thời kỳ đó chưa có phương tiện thu trước rồi phát sau. Vì lý do chưa có đĩa nhựa 45 tours, chưa có băng AKAI, chưa có băng cassette hay USB. Mà chỉ có ĐĨA THAN của Pháp rất đắt, chỉ thu được duy nhất một lần với âm thanh rất hạn hẹp.

               4. Sau buổi phát thanh thứ hai thì anh Nguyễn Văn Sắc, anh Nguyễn Ấn, anh Hoàng Thuyên xin rút vì thì giờ phát thanh ảnh hưởng đến việc làm ở Nha Địa Dư, chỉ có thể tham gia những ngày lễ lớn hoặc ngày Chủ nhật.

Như vậy Ban Phát Thanh chỉ còn anh Nguyễn Hữu Thạnh là biên tập + điều hành và giới thiệu; chị Yến Lương là xướng ngôn viên và ngâm thơ.

               Ban nhạc còn lại: anh Nguyễn Văn Thành (accordeon), anh Trần Ngọc Dần (mandoline), anh Miện (piano), anh Mão (Ngô Quyền: guitar)
Ban-nhac-2

               Đợt I: Ban hát Nam: anh Huân, anh Ngô Nghĩa, anh Lân, anh Hội, anh Mùi, anh Trường

                Ban hát Nữ: chị Yến Lương, chị Mộng Hoa, chị Mộng Ngân, chị Vân (Nguyễn T Phương), chị Vân (M.Mạng), chị Nguyệt (Ng Biểu), chị Mỳ (Ng Trỗi)

               Đợt II: Sau một thời gian, các anh và các chị phải rời Ban Phát Thanh để đi các tỉnh khác làm việc hoặc lập gia đình v.v… Trong khi đó Ban Phát Thanh lại được bổ sung anh Lê Uyên Phương (violin). Hát: chị Bích Đào, chị Tuyết Anh, chị Lân Anh, chị Thanh (Du Sinh), chị Loan (PĐ Phùng), chị Tâm (ĐT Điểm), chị Trang (M Mạng).

Đợt III: Phối hợp Phát Thanh có:

                  - Bác Chỉ (PN Lão) Gia trưởng Gia Đình Phật Tử Dalat

                  - Bác Thụ (Du Sinh), cô Vân (PĐ Phùng) - ban Từ Thiện

                  - Thầy Quảng Thành, Thầy Phạm Thiên Thư: Tuyên Úy Phật Giáo

Đợt IV: Thời sự biến chuyển của tháng 4 năm 1975:

Gia đình anh Lê Uyên Phương chuẩn bị xuất ngoại thì gia đình anh Bửu Ấn từ Pleiku lại về Dalat và nhiệt tình sinh hoạt cùng với anh chị em trong Ban Phát Thanh Phật Giáo. Đồng thời tăng cường các anh chị như: Thầy giáo Phong (danh ca bài Bông Hồng cái áo), anh Thuyết, anh Hỷ, anh Hùng (N Hàng), anh Thắng, anh Phong (Ngô Quyền), cô Giáo Hà (danh ca bài Quán Thế Âm Bồ Tát), chị Đăng, chị Châu, chị Huệ, chị Hồng, chị Cúc để củng cố, lưu hậu. Do đó phải thu vào băng và chuyển ra đĩa để phát huy nhạc Phật Giáo Việt Nam. Đồng thời phải chuyển danh xưng là Ban "Nhạc Lễ". Một thời gian sau đó, để hợp thức với thời thế, Ban Văn Nghệ đổi tên là Ban Phát Thanh, đổi tiếp là Ban Lễ Nhạc và nay là Ban Kinh Nhạc.

                             Ban-nhac

Như vậy, Ban Phát Thanh Phật Giáo Dalat Việt Nam duy trì được 20 năm và thực hiện liên tục là nhờ sự nhiệt tình giúp đỡ của bác Minh, Trưởng đài và cũng là người điều hành chương trình phát thanh.

Diễn tiến các buổi Phát Thanh Phật Giáo Dalat:

                   Hằng tuần:

·      Nhóm I (từ năm 1956 đến tháng 4/1975: 20 năm)

                              Cứ vào khoảng 17:30 mỗi chiều thứ Hai: Các anh chị lớn tự động lên Đài Phát Thanh với phương tiện tự túc cùng nhạc cụ cá nhân. Riêng anh Thành ôm thùng đàn Accordeon 20 kg leo lên 96 bật thang thì sát giờ phát thanh.

·        Nhóm II: cũng vào khoảng giờ nầy thì chiếc xe traction Familiale đen của bác Ba Điện lái đi cùng với anh Thạnh đến cổng trường Bùi Thị Xuân đón các em qua Đài Phát Thanh.

                                             Thực Hiện Phát Thanh 

1)   Mở đầu là 3 tiếng chuông chùa âm vang từ phòng điều hành của Đài Phát Thanh với giọng phát ngôn miền bắc trầm ấm của bác Minh, Trưởng đài:

“Đây là buổi Phát Thanh Phật Giáo thành phố Dalat VN.  Được phát thanh từ Đài Phát Thanh Dalat vào lúc 18 giờ 15 vào ngày thứ Hai hằng tuần”

 

Ngay sau đó là tiếng Nhạc mở đầu của bài Phật Giáo Việt Nam được trỗi lên và đồng hát bài hát truyền thống: Phật Giáo Việt Nam.

 

2)       Liên tục chương trình là giọng giới thiệu trầm tư đạo hạnh của anh Nguyễn Hữu Thạnh với tin tức Phật Giáo, giáo lý Phật Giáo, trích dẫn các mục, các Phật sự mà chư Phật, chư vị Bồ Tát đã thể hiện trên đời nầy …

3)       Tiếp theo là một bài hát âm thanh hữu sắc Phật Giáo (trong 528 bài nhạc Phật Giáo)

4)       Tiếp đến là tin tức Phật sự, tin tức từ thiện, tin tức sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử Việt Nam v.v...

5)       Với giọng ngâm thơ sắc bén mà ngọt ngào của chị Yến Lương qua các bài thơ tôn vinh, đề cao, khuyến tu Phật đạo của các vị tiền bối.

6)       Cuối chương trình là các bài hát: Mừng Đản Sanh (trong mùa Đản Sanh), hay bài Lạy Phật con trở về, hoặc Quán Thế Âm Bồ Tát v.v...

 

Trong mùa Vu Lan thì kết thúc bài Vọng Vu Lan, hoặc bài Lòng Từ Muôn Thuở, hay bài Bông Hồng Cài Áo v.v…

 

Nếu nói đến Phát Thanh thì phải gợi nhớ đến Phóng Thanh. Thưa quý vị, trong đời sống nhiêu khê vất vả chỉ vì muốn tạo dựng cuộc sống tốt đẹp. Nhưng cũng vì sự nhiêu khê vất vả đó thể quên đi việc tạo dựng đời sống tâm linh tốt đẹp! Do dó, cứ đến các buổi lễ lớn của Phật Giáo: Ban Phát Thanh Phật Giáo đến ty Thông Tin Văn Hóa Tuyên Đức xin ông Phạm Gia Triếp (là Trưởng ty) và ông Bửu Tại (là Phó ty) mượn chiếc xe Radio-Car (trong xe đã trang bị đầy đủ: máy phát điện, máy amplie và dụng cụ Phóng Thanh) cùng với bác Trần Văn Nỏn là kỷ thuật viên và cũng là tài xế. Cứ đúng 5 giờ sáng của các buổi lễ lớn là xe Radiao-Car có mặt tại chùa Linh Sơn Dalat.

 

    Trên xe: băng ghé trước, bên trái là bác Nỏn, ở giữa là anh Thạnh cầm micro Phóng Thanh, bên mặt là anh Thành với cây đàn accordeon. Sau băng ghế nầy là 3 ca Nữ ngồi co ro trong kẹt thùng Máy Phát Thanh và máy phát điện. Trên thùng máy chiếm sát trần xe là 3 ca Nam nằm sấp trên thùng máy để hát. Thưa đây là ca đoàn hy hữu của ban Phát Thanh + Phóng Thanh Phật Giáo Dalat.

 

    Xe Radio-Car Phóng Thanh nầy được điều động đến các Khuông Hội Phật Giáo trong thành phố Dalat để thỉnh mời, động viên các Phật Tử đến tham dự buổi lễ tại Lễ Đài Phật Giáo chùa Linh Sơn Dalat.

     Thưa quý vị: “Ngày xưa, gió thổi qua cây Đàn Không Hầu đã chuyển thành sức mạnh tâm linh và âm vang kỳ diệu như thúc gọi về Nguồn Sáng Tâm Linh để qua sông và đạt đạo.”

 

Ngày nay, đã trải qua 65 năm tâm đạo, Đài Phát Thanh Dalat trên nóc Hotel Du Parc với 96 bậc thang nay vẫn còn đó. Làn sóng Phát Thanh Phật Giáo nay đã tan biến vào mây khói dưới bầu trời xanh Dalat thơ mộng. Âm vang Phóng Thanh Phật Giáo trên xe Radio-Car nay đã hòa tan vào sương lạnh Dalat quý yêu. Nhưng dư âm Phát Thanh và Phóng Thanh Phật Giáo Dalat vẫn còn lắng đọng trong tâm tư người Phật Tử.

 

Với nguyện vọng lưu hậu di tích Ban Phát Thanh Phật Giáo GĐPT Dalat Việt Nam. Thực hiện liên tục hằng tuần từ năm 1956 cho đến tháng 4 năm 1975. Nay 2021, Thanh Huyền xin ghi lại để tưởng niệm Hương Linh anh Nguyễn Hữu Thạnh và quý anh chị trong Ban đã quá vãng.


Nam Mô A DI Đà Phật

Tâm Viên (Thanh Huyền)



Một số bài hát do
Ban Phát Thanh Phật Giáo Đà Lạt thực hiện.

Xin mời quý vị lắng nghe

01. Trầm Hương Đốt

02. Ngày Vía Đản Sanh

03. Ngày Huy Hoàng

04. Mừng Đản Sanh

05. Tụng Ca Mẹ

06. Mục Kiền Kiên

07. Bông Hồng Cài Áo

08. Mẹ

09. Quán Thế Âm Bồ Tát
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 5087)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4435)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4106)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4696)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4158)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3603)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6882)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5054)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
27/04/2021(Xem: 4005)
Đêm yên tĩnh. Nhìn ra khung kiếng cửa sổ chỉ thấy một màu đen, đậm đặc. Cây cối, hàng giậu, lẳng hoa, bồn cỏ, ghế đá, và con đường ngoằn ngoèo trong công viên, có thể sẽ khó cho khách bộ hành nhận ra vị trí và thực chất của chúng. Cây bên đường có thể bị nhầm là kẻ trộm đối với cảnh sát, và sẽ là cảnh sát đối với kẻ trộm (1). Giây thừng hay con rắn. Con chim hay con quạ. Con sóc hay con mèo. Người hay quỉ. Mọi vật đều một màu đen. Trong bóng đêm, mọi thứ đều dễ trở nên ma mị, huyễn hoặc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]