Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điểm sách: Tác phẩm: “Thong Dong Khắp Mọi Nẻo Đường”

15/05/202111:13(Xem: 4076)
Điểm sách: Tác phẩm: “Thong Dong Khắp Mọi Nẻo Đường”
Điểm sách: Tác phẩm: “Thong Dong Khắp Mọi Nẻo Đường”
 Của Tác giả Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ
 
Thích Như Điển

 

 ThongDongKhapMoiNeoDuong-1

Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phật Pháp đi vào đời của người thanh niên trẻ trí thức Phật Tử Tâm Thường Định, ở nhiều lãnh vực, đặc biệt là lãnh vực đem Đạo vào Đời ở trường học Hoa Kỳ. Với chừng ấy việc mà hai học giả Phật tử nầy đã giới thiệu qua, thiết tưởng tôi không cần phải lặp lại nữa, tôi sẽ điểm qua tác phẩm cũng như Tác giả dưới một khía cạnh khác của một người xuất gia.

 

Tác phẩm chia ra 4 chương rất riêng biệt rõ ràng. Đó là: Giáo dục - Quê hương - Đạo Pháp - Văn Học Nghệ Thuật. Nhìn cách dàn dựng tác phẩm của Tác giả, chúng ta thấy được Tâm Thường Định muốn đặt nặng vấn đề nào trước vấn đề nào sau rồi. Thật vậy, trong 362 trang nầy, phần viết về Giáo Dục chiếm hết 143 trang, phần Quê Hương 73 trang, phần Đạo Pháp chiếm 59 trang và phần cuối cùng viết về Văn Học Nghệ Thuật chiếm 81 trang. Như vậy nếu đi lần lượt từ nhiều đến ít thì phần Giáo Dục chiếm ưu thế, kế đến là Văn Học Nghệ Thuật, thứ ba là Quê Hương và cuối cùng là Đạo Pháp. Nếu nói về lượng là như vậy, nhưng chúng ta nên hướng về phẩm như Tác Giả đã phân chia để giới thiệu thì hay hơn.

 

Nếu xem phần tiểu sử của Tác giả, thì ta biết rằng Anh sinh ra đời tại Nhơn Lý, Bình Định, trong một Gia Đình nông dân hay ngư dân thì đúng hơn vào năm 1976, năm ấy cũng là năm tôi sắp ra trường ở bậc Đại Học tại Nhật Bản. Mười lăm năm sau (1991) Anh sang Hoa Kỳ định cư theo diện đoàn tụ gia đình, ở tuổi 15 đã xa quê, nghĩa là học chưa xong bậc Trung học. Khi đến Mỹ, chắc rằng Tâm Thường Định phải khó khăn lắm với ngôn ngữ Anh Văn để tiếp tục vào học Trung Học của Hoa Kỳ. Thế mà sau 23 năm (1991-2014) Anh đã học xong các trường Trung học, Đại học, Cao học và Tiến sĩ về Giáo Dục Học, thì phải nói Anh là một người con dân Bình Định có nghị lực quá phi thường. Xin tán thán Tâm Thường Định về phương diện nầy. Bởi lẽ nhiều Cha Mẹ Việt Nam lo cho con cái của mình là không biết rành tiếng Việt, hay nói tiếng Việt không bỏ dấu v.v… thì khi đọc sách nầy quý vị sẽ thấy rằng khả năng tự học và trau dồi Việt ngữ của Tâm Phường Định phải nói là phi thường. Trong phần viết về Quê Hương, Anh đã điểm qua thân thế của Ba và Mẹ Anh cũng bình thường như bao nhiêu người nông dân Việt Nam khác, nhưng Anh được thành công như vậy là chính nhờ sự cố gắng vượt bực của Anh và đặc biệt là môi trường giáo dục tốt của Hoa Kỳ cũng như của hai ngôi chùa: Kim Quang tại Sacramento, nơi cố Hòa Thượng Thích Thiện Trì Trụ Trì; và ngôi chùa Quang Nghiêm ở Stockton, nơi Hòa Thượng Thích Minh Đạt đang làm Viện Chủ. Cả hai nơi nầy có hai Gia Đình Phật Tử và chính ở môi trường nầy, Anh đã thành danh chi mỹ.

 

Chắc quý vị trong chúng ta nhiều người cũng đã nghe nói đến Phó Thủ Tướng Đức, Ông Dr. Philipp Rösler sinh năm 1973 tại Ba Xuyên và là một cô nhi trong Cô Nhi Viện ở Sóc Trăng. Thế mà qua hoàn cảnh giáo dục của nước Đức, Ông ta đã được cha mẹ nuôi cho ăn học thành Bác sĩ Y Khoa và trở thành một chính trị gia của Đảng FDP có tiếng một thời tại xứ Đức nầy. Chỉ có một điều là Ông xa quê còn quá nhỏ, không nhớ và nói được tiếng Việt, nhưng xuất xứ vẫn là một người Việt Nam. Như vậy môi trường Giáo Dục rất là quan trọng, cộng thêm với khả năng và ý chí của một con người, chúng ta sẽ làm nên tất cả, nếu chúng ta muốn. Nhiều khi cha mẹ lo lắng cho con cái quá nhiều, nhưng nếu nó không biết tự lo cho thân nó thì kết quả cũng không đi đến đâu cả. Tục ngữ Đức nói rằng: “Trái táo rụng cách xa gốc cây táo không bao xa”; hay Việt Nam chúng ta cũng có những câu tục ngữ như: “Lá rụng về cội”, “Cóc chết 3 năm cũng sẽ quay đầu về núi” là thế. Điển hình là ở phần Quê Hương, Tâm Thường Định cũng như Phó Thủ Tướng Đức đã cho vợ con mình trở lại quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình để thăm mồ mả của Ông bà, Tổ tiên. Điều nầy đối với những bậc cha mẹ còn tại thế hay những người thân thuộc đã ra đi về với Phật với Chúa cũng rất hài lòng. Vì lẽ: “Cây có cội và nước có nguồn” là vậy.

 

Tâm Thường Định ảnh hưởng Như Lai Thiền của Thiền Sư Nhất Hạnh, Thiền Sư căn cứ vào An Ban Thủ Ý Kinh về Chánh Niệm của hơi thở để dạy cho người Tây Phương rất thành công. Ngoài ra Tác giả cũng ảnh hưởng Tổ Sư Thiền của Thiền Sư Thích Thanh Từ không ít. Đặc biệt là Thiền của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông ở thế kỷ thứ 13 của Việt Nam mình, không phải là Thiền khán thoại đầu hay Thiền công án như của Tào Động và Lâm Tế Tông của Trung Hoa hay Nhật Bản, mà chỉ thuần túy là Thiền Nam Tông và Bắc Tông đặc biệt của Việt Nam. Qua sự truyền dạy của hai vị Thiền Sư trên cũng như Đệ tử của hai Ngài, từ đó Tâm Thường Định qua phương pháp giáo dục của mình, đã mang Thiền học vào học đường, vào nhà tù của Hoa Kỳ để hướng dẫn thực tập. Và kết quả qua các bài thuyết trình hay viết về giáo dục, Tác giả đã thành công không nhỏ ở phương diện nầy.

 

Ngày chúng tôi mới vào nhập học năm thứ nhất, phân khoa Giáo Dục Đại Học Teikyo Nhật Bản vào năm 1973, có một vị Giáo thọ hỏi các tân sinh viên rằng: “Các Anh chọn ngành Giáo Dục để học. Vậy Giáo Dục là gì vậy?” cả lớp sinh viên người Nhật và chúng tôi đều nhìn nhau và Thầy tiếp: “Giáo là dạy, dục là mong muốn, dưỡng nuôi để trưởng thành”, “Ồ!” Cả lớp đều la lớn lên như vậy. Điều ấy hẳn đúng, cũng giống như các vị Giảng sư hay Thầy giáo đi giảng Pháp và dạy học, có nghĩa là giảng hay dạy cái gì người học cần hiểu, chứ không phải giảng hay dạy cái điều của mình hiểu. Bởi lẽ mình hiểu khác và người nghe hiểu khác. Mà điều căn bản của Giáo Dục là làm sao cho người nghe hiểu được điều mình nói và đem áp dụng vào cuộc sống. Ấy mới là điều quan trọng và Tâm Thường Định đã thành công ở phương diện Giáo Dục học đường nầy.

 

Với Quê hương, Mẹ già, đường xưa lối cũ v.v… Tác giả cũng đã chia sẻ cho độc giả nhiều câu chuyện rất hay, nhất là tình Mẹ. Ở trên thế gian nầy có rất nhiều loại tình, nhưng không có tình nào bằng tình Mẹ cả. Sâu hơn đại dương và cao hơn núi Thái. Trong nhiều tiểu luận Tác giả cũng đã viết về người Cha thân yêu của mình; nhưng không ý vị bằng tình Mẹ như Anh đã mô tả. Lâu nay văn sĩ nào viết về Mẹ cũng hay và tôi chưa thấy người nào viết về Cha thành công như viết về Mẹ.

 

Về Đạo Pháp thì Anh viết về Cố Hòa Thượng Thích Thiện Trì, Hòa Thượng Thích Minh Đạt, Hòa Thượng Thích Tịnh Từ, Cố Hòa Thượng Thích Hạnh Tuấn và đặc biệt là tư tưởng Thiền của Vua Trần Nhân Tông. Rất tiếc là phần nầy Anh viết rất ít so với những phần khác. Tuy nhiên Anh viết với tâm cảm của một người Phật tử thuần thành đối với Đạo. Bởi vì: “Ân giáo dưỡng một đời nên huệ mạng. Nghĩa ân sư muôn kiếp khó đáp đền” là vậy. Do Gia Đình Phật Tử và nhờ môi trường của Gia Đình Phật Tử mà Tác giả mới có được ngày hôm nay. Do vậy chúng ta không có gì bi quan hết, mà hãy lạc quan như người Phật Tử Nhật Bản đã nêu lên bốn điều quan trọng của Phật Giáo Việt Nam, mà Hòa Thượng Thích Thái Hòa đã lặp lại là: “Việt Nam có một vị vua sau khi chiến thắng lẫy lừng hai lần quân Nguyên Mông sang xâm chiếm vào năm 1285 và 1288, sau đó nhà vua lại xuất gia tầm đạo, trở nên Điều ngự Giác Hoàng; thứ hai là quả tim bất diệt của Hòa Thượng Thích Quảng Đức vào năm 1963; thứ ba là không có nước Phật Giáo nào trên thế giới có một Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất cả hai truyền thống Nam Tông và Bắc Tông như Việt Nam; và điều thứ tư rất quan trọng là chỉ Việt Nam mới có tổ chức Gia Đình Phật Tử.  Chỉ điểm qua 4 điểm nầy thôi, chúng ta cũng đủ hãnh diện là một người Phật Tử Việt Nam rồi.

 

Phần cuối Tác giả viết về Văn Học Nghệ Thuật. Ở đây Tác giả đã trích và bình nhiều thơ văn của Ngài Tuệ Sỹ, nhạc và đạo ca của Phạm Thiên Thư, nhạc Trịnh Công Sơn, Từ Đàm Quê Hương Tôi của Văn Giảng v.v… rồi tham dự những đêm giao hưởng của nhạc và thơ … Nói chung thì Tác giả rất giỏi về nghệ thuật viết văn, làm thơ, bình thơ, thưởng thức âm nhạc, hội họa v.v… Riêng tôi thì mù tịt về việc nầy. Trong đầu tôi chứa đến mấy trăm bài thơ, nhưng cho đến bây giờ trên 70 tuổi và gần 50 năm sống ở ngoại quốc rồi, tôi chưa làm được một bài thơ nào ra hồn, mặc dầu tôi rất thích đọc và học thơ như: Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Trần Tế Xương v.v…; nếu có, thì sau nầy khi viết sách tôi dựa theo lối dịch cổ văn ra Việt ngữ, và từ đó làm thơ lục bát hay song thất lục bát nhưng không được hay lắm. Quý vị có thể tìm đọc trong tác phẩm thứ 67 của tôi: “Vua Là Phật, Phật Là Vua” hay tác phẩm thứ 68 nhan đề là “Tư Tưởng Phật Giáo Qua Thi Ca Của Nguyễn Du” thì sẽ rõ những yếu điểm của tôi. Ở đây Tác giả quyển “Thong Dong Khắp Mọi Nẻo Đường” thì khác, làm thơ tiếng Việt rất có hồn mà dịch ra tiếng Anh lại còn ăn khớp với nội dung nữa. Nhiều khi Anh dùng tục ngữ ca dao cũng nhiều và có lần tôi điện thoại để hỏi Tác giả: “Câu nầy không biết là do Anh viết hay tục ngữ của nước nào vậy?” Anh trả lời đó là tục ngữ của Phi Châu. Câu ấy như thế nầy: “Nếu bạn muốn đi nhanh thì hãy đi một mình và nếu bạn muốn đi xa thì hãy cùng đi chung”. Quả là tuyệt vời! Việc nầy tôi có thể ứng dụng vào việc Đạo cũng rất hay. Bởi lẽ theo tôi nghĩ rằng: Việc chung của Giáo Hội nó nặng như tảng đá ngàn cân, nếu một mình mình thì chắc rằng sẽ không nhích nổi tảng đá kia; nhưng nếu muốn di chuyển đi xa hơn vị trí cũ thì phải cần nhiều nhân lực mới kham nổi. “Đông tay vỗ nên kêu” là vậy.

 

Tôi thấy Anh say sưa nơi thơ của Ngài Tuệ Sỹ, chìm sâu vào nhạc của Phạm Duy và Đạo Ca của Phạm Thiên Thư. Nghe người khác hát còn biết được bài hát kia ở giai điệu nào v.v… tất cả những việc nầy tôi xin chịu thua. Bởi lẽ không rành về những lãnh vực nầy thì không nên múa rìu qua mắt thợ. Tôi chỉ tự hỏi rằng với tuổi đời của Tác giả chưa đến 50 mà có nhiều tài như vậy, thì chúng ta cũng đáng hãnh diện là người Việt Nam da vàng đã không hỗ danh khi đem chuông đi đánh xứ người. Bởi lẽ Tác giả đã không vị kỷ chỉ lo cho mình, cho gia đình mình mà còn lo cho tổ chức Gia Đình Phật Tử, chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống với những tù nhân trong các trại tù và hướng họ về Chánh Niệm, giúp đỡ cho nhiều quỹ từ thiện khác nhau v.v…

 

Để kết luận bài điểm sách và điểm về Tác giả của quyển sách nầy, tôi xin dùng câu tục ngữ của người Nga để giới thiệu đến quý vị như sau: “Hạnh Phúc là những gì người ta đang có chứ không phải là những gì người ta đi tìm”. Vậy quý vị, nếu ai đó muốn có hạnh phúc thì cũng nên đọc sách nầy để tâm mình được an và thân được như ý.

 

Kính chúc tất cả Quý độc Giả có được một mùa Xuân như ý.

 

Viết xong lời điểm sách nầy vào lúc 16:00 ngày 8 tháng 5 năm 2021 tại thư phòng của Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc.
ThongDongKhapMoiNeoDuong-2



***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4916)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5027)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4401)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
10/05/2021(Xem: 4661)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4118)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3566)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6838)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6890)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5006)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
27/04/2021(Xem: 3969)
Đêm yên tĩnh. Nhìn ra khung kiếng cửa sổ chỉ thấy một màu đen, đậm đặc. Cây cối, hàng giậu, lẳng hoa, bồn cỏ, ghế đá, và con đường ngoằn ngoèo trong công viên, có thể sẽ khó cho khách bộ hành nhận ra vị trí và thực chất của chúng. Cây bên đường có thể bị nhầm là kẻ trộm đối với cảnh sát, và sẽ là cảnh sát đối với kẻ trộm (1). Giây thừng hay con rắn. Con chim hay con quạ. Con sóc hay con mèo. Người hay quỉ. Mọi vật đều một màu đen. Trong bóng đêm, mọi thứ đều dễ trở nên ma mị, huyễn hoặc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]