Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lý Tưởng Giác Ngộ Của Con Người (pdf)

26/01/202314:14(Xem: 2564)
Lý Tưởng Giác Ngộ Của Con Người (pdf)

Lý tưởng Giác ngộ của con người
The Ideal of Humain Enlightenment

Urgyen Sangharakshita.
Hoang Phong chuyển ngữ

Lời mở đầu của người chuyển ngữ

         Chúng ta có thói quen nhìn vào Phật giáo xuyên qua các phương tiện thiện xảo cùng các ảnh hưởng văn hóa, phong tục, và cả các phương pháp tu tập đại chúng của Trung quốc, thế nhưng dường như chúng ta không mấy khi ý thức được đúng mức về điều đó. Chúng ta cứ nghĩ rằng Phật giáo là như vậy. Thế nhưng Giáo huấn của Đức Phật sau khi được đưa vào Trung quốc qua các con đường tơ lụa, đã bị biến đổi rất nhiều qua hàng ngàn năm thích ứng với nền văn minh của đế quốc này, một nền văn minh hoàn toàn khác biệt với nền văn minh trong thung lũng sông Hằng, nhất là trên phương diện tư tưởng, ngôn ngữ và chữ viết.

         Nền Phật giáo đó của Trung quốc và cả các nền Phật giáo của các quốc gia lân bang như Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản, chịu ảnh hưởng bởi nền Phật giáo Trung quốc, dường như cho thấy những sự suy thoái và khó khăn trầm trọng, nếu không muốn nói là cả một sự bế tắc. Nền văn minh Trung quốc đạt đến tột đỉnh vào thời đại nhà Đường từ thế kỷ thứ VI đến thứ IX, và đã suy tàn dần từ sau đó. Phật giáo Trung quốc cũng diễn tiến song hành với đà thăng tiến và suy thoái đó của nền văn minh Trung quốc. Các nền Phật giáo của các nước lân bang phát triển chậm hơn và cũng đạt được các thời kỳ hưng thịnh chậm hơn, ít nhất là vài thế kỷ. Nói chung các nền Phật giáo phát triển qua các con đường tơ lụa biến dạng và suy tàn dần cho đến ngày nay, nói một cách khác là không còn thích ứng được với các xã hội hiện đại.

       Trái lại nếu nhìn vào nền Phật giáo "non trẻ" trong thế giới Tây phương, thì chúng ta sẽ không khỏi nhận thấy nền Phật giáo đó, nhờ thừa hưởng một nền văn minh duy lý, khoa học và triết học, đã phát triển thật nhanh chóng và vững chắc, nhất là phù hợp và thích ứng hơn với con người tân tiến ngày nay.

    Thế nhưng trong bài thuyết trình dưới đây nhà sư Sangharakshita nêu lên một số các hiểu lầm của người Tây phương về Phật giáo, mà chúng ta có thể là không ngờ đến. Đó là các sự hiểu lầm tạo ra bởi sự liên tưởng giữa Phật giáo và nền tín ngưỡng hữu thần đã ăn sâu vào nền văn hóa và sự sinh hoạt xã hội của họ từ ngàn năm qua. Một số người Tây phương nhìn vào Phật giáo và tìm hiểu Phật giáo xuyên qua các thuật ngữ trong tín ngưỡng của họ. Thế nhưng qua một góc nhìn nào đó thì Giáo huấn của Đức Phật không phải là một tôn giáo theo cách hiểu của của người Tây phương. Thật vậy, chỉ có người Tây phương mới nhìn thấy được các khía cạnh tế nhị đó trong cách nhận định của chính họ về Phật giáo.

       Bài thuyết giảng này được đưa ra vào năm 1975, tức là cách nay đã gần nửa thế kỷ. Những gì trên đây là các nhận xét của nhà sư Sangharakshita vào thời bấy giờ, ngày nay con số sách báo và tư liệu về Phật giáo trong các nước Tây phương rất phong phú, nêu lên các công trình khảo cứu và các sự hiểu biết rất cao. Dầu sao các nhận xét này cũng chỉ là các luận cứ mở đầu cho bài thuyết giảng của nhà sư Sangharakshita. Điều chủ yếu và quan trọng hơn cả trong bài thuyết giảng này là lý tưởng của sự sống con người, lý tưởng của sự hiện hữu của con người. Lý tưởng đó thường được gọi bằng  ột thuật ngữ khá quen thuộc - ít nhất là đối với những người Phật giáo - là sự Giác ngộ.

       Vậy Giác ngộ là gì, thuật ngữ này muốn nói lên điều gì? Giác ngộ là tiếng Hán (覺悟), chữ "giác" có nghĩa là bừng tỉnh hay hiểu ra, chữ "ngộ" có nghĩa nhận thấy được, vỡ lẽ ra. Hai chữ này mang ý nghĩa khá gần nhau, chữ "ngộ" bổ túc và nhấn mạnh thêm cho chữ "giác". Hai chữ giác và ngộ được dịch từ chữ Bodhi trong tiếng Phạn và tiếng Pali. Chữ Bodhi bắt nguồn từ động từ bodheti có nghĩa là thức dậy, tỉnh dậy - sau một giấc ngủ say chẳng hạn - và được xem như là một sự bừng tỉnh hay bừng sáng, một "sự hiểu biết siêu việt" bất thần hiện lên với mình. Tiếng Anh dịch chữ Bodhi là Awakening / sự Thức tỉnh hay Tỉnh thức, Enlightenment / sự Bừng sáng hay Quán thấy minh bạch; tiếng Pháp dịch chữ Bodhi là Eveil hay Illumination, mang cùng một ý nghĩa với tiếng Anh. Chữ Giác ngộ sẽ được dùng trong bản dịch tiếng Việt dưới đây, dù chữ này đã trở nên quá quen thuộc và bị lạm dụng, khiến ý nghĩa của nó trở nên mơ hồ và thiếu chính xác.

     Ngoài ra thiết nghĩ cũng nên nhấn mạnh thêm một khía cạnh khác của chữ Giác ngộ. Chữ giác ngộ không có nghĩa là một sự hiểu biết, với tư cách là một danh từ hay một động từ, liên quan đến một sự vật cụ thể hay một sự hiểu biết nào cả, mà là một "thể dạng" hiểu biết siêu việt và thượng thặng về một cái gì đó thật sâu xa và rộng lớn, mà những người khác - những người chưa thức tỉnh - không có một ý niệm nào cả. Đấy là cách hiểu về chữ Giác ngộ giúp chúng ta theo dõi bài giảng rất khúc triết này của nhà sư Sangharakshita.

pdf-download

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 6582)
Nhiều người hỏi tôi, Phật tử nghĩ gì về hôn nhân đồng tính? Vâng, vấn đề này tùy thuộc vào đối tượng mà bạn nói đến. Cách đây vài năm, trong cuộc phỏng vấn với hãng CBC, đức Dalai Lama đã bác bỏ quan hệ đồng tính, khiến ngạc nhiều người cải đạo sang đạo Phật ngạc nhiên. Đôi khi, họ quá dễ dãi cho rằng đạo đức Phật giáo là phù hợp với quan điểm tiến bộ tiêu biểu của họ. Khi cuộc phỏng vấn của người Gia-nã-đại được lên mạng internet, vài người bị choáng và bị rối, nhưng quan điểm của đức Dalai Lama đưa ra không làm ngạc nhiên đối với bất cứ ai lưu tâm theo dõi vấn đề này. Rốt cuộc thì lập trường của ngài vẫn trước sau như một. Tại một hội nghị cách đây 12 năm, khi các lãnh đạo đồng tính gặp đức Dalai Lama ở San Francisco để thảo luận vấn đề cấm Phật tử Tây Tạng phản đối việc đồng tính luyến ái, ngài đã nhắc đi nhắc lại quan điểm truyền thống rằng đồng tính luyến ái là “tà hạnh”
18/09/2010(Xem: 11197)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
17/09/2010(Xem: 8174)
Gốc tiếng Phạn của chữ cà-salà kasaya.Nhưng thật sự chữ kasayatrong tiếngPhạn không có nghĩa là áomà có nghĩa là bạc màu, cáu cặnhay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm(màu nhạt), trọchay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sacủa người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèonàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gìvề chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc nhữngđiều vừa nêu trên đây.
10/09/2010(Xem: 49566)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 5268)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựng là vô cùng mạnh mẽ, tại vì chỉ một giây phút tức giận là có thể phá hủy hết công đức của cả một đời người.
07/09/2010(Xem: 6474)
Chúng ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt trời, như cá khát dòng sông êm dịu. Thế nhưng, khi chúng ta đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
04/09/2010(Xem: 9625)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 5694)
Đọc xong những câu chuyện của các phụ nữ ở Hoa Kỳ và kinh nghiệm của các vị đối với đạo Phật, chúng tôi đã rất hoan hỷ và xúc động trước những nhận thức sâu xa của họ về cuộc sống, con người và môi trường chung quanh... Những lời dạy của đức Phật vừa nhiệm màu vừa thực tiễn đến làm sao! Những lời giảng dạy ấy đã chữa lành, loại bỏ những khổ đau và đem lại sự bình an, hạnh phúc đến hàng vạn con người trong nhiều thế kỷ qua. Sau đây là các câu chuyện của những phụ nữ người Hoa Kỳ từ các nguồn gốc khắp nơi trên thế giới. Những câu chuyện về hạnh phúc và sự sống trong tỉnh thức của họ qua sự tu tập và trở về với Đạo Phật. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu và chia xẻ cùng bạn đọc.
02/09/2010(Xem: 5305)
Phiêu linh bao kiếp luân hồi - Phút giây hội ngộ, đời đời khổ đau - Mịt mùng tăm tối lạc nhau- Mang mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
30/08/2010(Xem: 6899)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567