Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ân Phước thọ nhận từ sự nghe Pháp, Kính Tri Ân Quý Giảng Sư Biện Tài Nhạo Thuyết

30/12/202107:26(Xem: 4229)
Ân Phước thọ nhận từ sự nghe Pháp, Kính Tri Ân Quý Giảng Sư Biện Tài Nhạo Thuyết


Su San Nhien

Ân Phước thọ nhận từ sự nghe Pháp

Kính Tri Ân Quý Giảng Sư Biện Tài Nhạo Thuyết

Kính chia sẻ món quà Chánh Pháp được trao tặng qua bài kinh Niệm Xứ(bài thứ 10 trong Trung Bộ Kinh) được Giảng Sư Pasado Sán Nhiên trình thuyết trong 18 giờ đồng hồ với 7 video từ năm 2017 tại Virginia / USA.

 

 

Lời nói đầu

Kính dâng lòng thành kính tri ân đến những vị Giảng Sư đã từng biên chép, phiên dịch, thuyết giảng về bài Kinh Niêm Xứ (bài thứ 10 trong Trung Bộ Kinh) đã được Đức Thế Tôn một lần duy nhất thuyết giảng tại đô thị Kamassadhamma của xứ Kuru (1) và sau đó một nửa người dân xứ này đã đạt quả Bất Lai và một nửa còn lại khi vãng sanh đều được về Bắc Câu Lô Châu để thọ hưởng sự an vui tịnh lạc với tuổi tho 1000.

Đặc biệt kính đảnh lễ Giảng Sư Pasado Sán Nhiên với kinh nghiệm từ bộ thứ bảy về Phát Thú trong Kinh Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma) đã truyền trao tất cả tâm huyết khi thuyết giảng Kinh Niệm Xứ thật thâm diệu trong 7 video dài 18 giờ đồng hồ....Và TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng đã trao chìa khóa vàng “Trong cái thấy nghe chỉ là cái thấy nghe với sát na đầu tiên “ làm duyên giúp con tìm lại những đam mê và hứng thú khi nghiên cứu lại những bài kinh nguyên thủy căn bản mà nhiều năm qua con cho là khó quá và đầu hàng . Kính đa tạ Thầy đã kiên nhẫn ôn nhắc nhiều lần, nhờ vậy mà con đã quen với sự trình pháp, chú tâm theo dõi và đã thâm nhập hơn, thấu hiểu hơn... hương vị tinh túy từ nhừng bài pháp thoại đã được Thầy dành trọn tâm huyết mình vào đó.

 Kính bạch quý Giảng Sư...

Nhiều năm trước, học kinh khó mà liễu nghĩa!

Vì chưa gần Thiện Tri Thức chỉ dạy tận tường

Biết căn cơ...chuyên hành thiện tạo phước ...tư lương

Đại duyên đến ..cơ hội nghe hàng trăm pháp thoại!

 

Kính đa tạ quý Giảng Sư...

Tập khí nhìn ra ...quyết tâm CHẬM LẠI

Cần tư duy, hiểu rõ mới ổn định tâm linh

Diệu lý diễn bày ...phát khởi kiên cố niềm tin

Sầu não, khổ ưu...ơ hay ..

Sao dễ dàng tan đi... thường nhật !

 

Kính tri ân quý Giảng Sư...

...giúp con thọ nhận lời dạy của Phật

Như Pháp tu hành ...kết hợp VĂN, TƯ

Không Tâm phân biệt..tìm pháp môn phù hợp căn cơ

Cứu cánh giải thoát ...được cũng cố và vững mạnh!

 

Thành kính đảnh lễ quý Giảng Sư tán dương...ngời phạm hạnh!

( Thơ HH)


Nhân dịp đầu năm 2022 kính chúc quý Giảng Sư được nhiều sức khỏe và tịnh lạc, thêm vào đó mọi chuyến hoằng pháp hoặc Phật Sự hoàn thành  viên mãn.

Kính trân trọng,

 

.   

Trước khi ghi lại những tinh túy được thọ nhận qua bài KINH NIỆM XỨ mà người viết cho là ân phước từ Đức Thế Tôn muốn trao tặng cho những người con của Ngài được sanh ra từ kim khẩu Ngài, xin được mạo muội ao ước bài viết này sẽ là món quà để gieo duyên dến tất cả bạn hữu đang may mắn gìn giữ ba viên ngọc quý thù diệu ( Phật-Pháp-Tăng ) .

Nào ...chúng ta đi vào định nghĩa tên kinh nhé ,

Kinh Niệm Xứ dịch từ Satipatthana Sutta mà trong đó ;

  • Kinh=Sutta = Lời Phật dạy
  • Niệm=Sati= Nhớ nghĩ không quên
  • Xứ=Patthana= nền tảng, nguồn gốc phát sinh từ những duyên hệ, duyên sinh( xin mở ngoặc Patthana còn là bộ kinh thứ 7 trong Vi Diệu Pháp đã được Đức Thế Tôn thuyết giảng tại cung trời Đao Lợi khi viếng thăm Thánh Mẫu Ma Ya, và đại ý bộ Phát Thú này nói về mãnh lực của 24 loại duyên chi phối nghiệp báo ta qua Thân, khẩu, Ý).

Và toàn bộ ý nghĩa tên kinh Niệm Xứ có thể diễn bày như sau “Đây là một phương pháp quán dựa trên 4 nền tảng (THÂN-THỌ-TÂM-PHÁP) để diễn bày tất cả sự tương sinh liên hệ ảnh hưởng đến nghiệp báo ta để từ đó nhận ra vạn pháp trên thế gian đèu có thực tướng Vô Thường-Khổ- Vô Ngã mà ghi nhớ không quên”.

Và cũng xin mượn lời của Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải trong toát yếu về Trung Bộ Kinh được Việt dịch từ HT Thích Minh Châu như sau;

“Đây là một trong những bài kinh quan trọng nhất và đầy đủ nhất mà Phật dạy về Thiền quán . Phật nhấn mạnh đến sự phát triển Tuệ quán qua 4 đề mục THÂN-THỌ-TÂM-PHÁP mà khởi đầu Phật dạy rằng ;”Bốn niệm xứ là con đường độc nhất, thẳng tắp nhất đưa đến Thanh Tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, đoạn trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí và thực chứng Niết Bàn ”.

Cần biết 4 niệm xứ ấy là ;

- Quán Thân trên Thân qua 14 bài tập từ cách quán trên hơi thở, quán 4 oai nghi,  chánh niệm tỉnh giác trong mọi hoàn cảnh, quán bất tịnh, quán tứ đại, và 9 pháp quán về tử thi qua các giai đoạn tan rã.

- Quán Thọ trên Thọ một bài tập.

- Quán Tâm trên Tâm một bài tập nhưng cần tuệ tri để thấy khi nào tâm có tham, sân, si hoặc không có, phải thấy đươc khi nào tâm tán loạn, quảng đại, thâu nhiếp, hữu hạn, vô thường, có định tĩnh , không định tĩmh, có giải thoát , không có giải thoát.

- Quán Pháp trên các Pháp gồm 5 bài tập qua các phân đoạn về 1-Năm triền cái 2-năm thủ uẩn 3-sáu nội ngoại xứ 4- Thất giác chi 5-Tứ thánh đế.

Và cuối cùng Phật nhấn mạnh rằng; Không cần phải 7 năm, 7 tháng, 7 tuần, có thể chỉ cần 7 ngày..... nếu vị hành giả ây chịu khó tu tập 4 niệm xứ này thì vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây( một là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại đạt vô sanh,  nếu còn hữu dư y thì chứng quả Bất Hoàn.)

 

Nhưng điều tôi tâm đắc nhất khi được biết vào thời ấy người dân xứ Kuru chưa hề biết đến Thiền Minh Sát Tuệ ( còn gọi là Thiền Vipassana) mà sau nầy Ngài Mahasi đã dùng 21 bài tập này chuyển thành 64 bài tập mà dạy cho thiền sinh Tây Phương cho đến ngày nay...

Tôi cũng được nghe rằng người dân xứ Kuru thời ấy luôn chánh niệm tỉnh giác trong mọi thời mọi lúc mà thôi và HT Viên Minh cũng thường chỉ dạy rằng Thiền Định và Thiền Quán hoàn toàn giống nhau đến 75%. vì người tu thiền định khi nhìn thấy được thực thể của Pháp thì hoan hỷ và an trụ trong ấy  khi thiền quán đi thêm bước nữa là việc nên làm phải làm và không muốn trở lại trạng thái đó... vì thấy được thực tướng của vạn pháp chỉ là VÔ THƯỜNG, KHỔ ĐAU, VÔ NGÃ .

 

Những tinh túy thu thập từ 7 bài giảng của Sư Sán Nhiên (2)  

1-   Đạo quả không phải là không có mà tại vì chúng ta không chịu kiên trì thực hành mà thôi.

 

2-   Thiền Minh Sát Tuệ ( chứa đựng nội dung của Chánh Niệm-Quán Niệm -Niệm Tuệ và Tuệ sẽ phát sinh nhờ Tâm định tĩnh trên mọi sự vật ..có thể gọi đó là tỉnh giác hay biết mình ). Như vậy nội dung Minh Sát gồm 2 phần;

-Chánh Niệm là an trú vững chãi trong giờ phút hiện tại.

-Quán Niệm là quan sát một cách sâu sắc vào trong thực thân của Thực tại  với mục đích nhận ra sự diễn tiến của THỰC TẠI ĐANG LÀ bằng một cái tâm định tĩnh ,

 

   3-Tất cả pháp môn tu chỉ là phương tiện nhưng phải đạt được đến cứu cánh qua con đường Đạo đế, bằng cách tu tâp 37 phẩm trợ đạo và nhất là Bát Chánh Đạo để diệt trừ kiết sử, triền cái và thói quen, tập khí do bản ngã tạo ra từ vô minh, ái dục, chấp thủ .

 

  4-Người học đạo phải thấy ra pháp nào là pháp thường nhiên và pháp nào do bản ngã ảo tưởng tạo nên.... để giải nghệp, chuyển hóa nghiệp chứ đừng tạo thêm nghiệp qua Thân, Khẩu, Ý nữa.

 

  5-Nghiệp không thể đong, đo, cân, đếm mà ta chỉ cứ tiêp tục làm thiện , làm hết năng lực, đừng nghĩ suy.... phải cần cho ai biết,

  6-Nhớ câu” bồ tát sợ nhân chúng sinh sợ quả “để biết rằng mọi nguyên nhân đều từ chữ “muốn” mà ra... chính cái ái dục này đã lôi cuốn ta vào sinh tử luân hồi.

  7-Đời sống tu tập của ta thường khi tỉnh, khi mê do đó cần phải luôn biết mình gọi là tỉnh giác mà tỉnh giác phải xuyên qua 4 phần sau đây( 1-điều ấy có thích hợp với mình không? 2-Có thích nghi với hoàn cảnh hiện tại mình không?3-việc muốn làm có đủ điều kiện để làm không ?4-lộ trình tâm phải kiên cố , tôi biết điều ấy rồi ...tôi sẽ không còn theo đuổi nữa).

Biết mình...là điều  thật sự cần thiết để khi nào ta sẽ cắt được những điều cần nên tránh (DO and DON’T).

Còn rất nhiều điều tinh túy khác nhưng bài viết có giới hạn kính xin được mượn lời Thiền Sư Buddhadasa, Viện chủ của Vườn Thiền Suan Mokkhabalarama (Sức Mạnh của Giải Thoát) đã nói lên được thêm những gì trong bài giảng ngầm chứa đựng cùng yếu nghĩa như sau ;

--Thuyết giảng Pháp khôn khéo nhất là chỉ ra cách phòng bịnh tốt nhất.

--Ai ai một khi nếu có thể hiểu được nguyên nhân của Khổ để diệt Khổ thì chắc chắn sẽ đạt được niềm hạnh phúc vĩ đại như Đức Phật .

---Dù cho bạn không biết Vô Ngã là gì chỉ cần biểu lộ bằng Tánh KHÔNG ÍCH KỶ và với khái niệm đơn giản đó, bạn sẽ tìm được tự do của sự tỉnh thức và hạnh phúc của Phật .

---Hành Thiền Vipassana là lối tu nhìn rõ được thực tại .

---Muốn thực hành lời dạy Phật, ta phải vừa là một nhà bảo thủ vừa là một nhà cấp tiến.

--Đừng để ý tới sự phân biệt hẹp hòi giữa Phật Giáo Theravada và Phật giáo Đại thừa mà phải thấy rằng cốt lõi của những lời Phật dạy đều được tìm thấy trong tất cả tông phái chân chánh và sống động.

 

Lời Kết:

 

Kính bạch các Giảng Sư,

Kính thưa các bạn hữu,

Qua bài kinh Niệm Xứ này người viết đã tư duy cho riêng minh rằng; ” Thực hành Giáo Pháp là thi hành nhiệm vụ của mình với một thiện tâm mà không có cái ta trong đó, miễn là với tất cả khả năng của mình và lúc nào cũng hay biết rằng điều đó sẽ mang lại lợi ích cho mình và cho người “ . Và cốt tủy của lời Phật dạy bao giờ cũng mang một ý nghĩa là ; “Hãy sống trong chánh niệm và tỉnh giác mọi thời mọi lúc, mọi nơi trong sự hiểu biết và mở rộng tình thương mà không đố kỵ, chấp thủ “.

 

Riêng với bài giảng của Giảng Sư Sán Nhiên con đã học được từ Ngài  rằng “ Trong Đạo và Đời luôn cần có một sự ghi nhớ chính xác vào mỗi công việc đang xãy ra và đó gọi là Niệm Xứ”.

Và hai yếu tố cần thiết để có Niệm Xứ chính là:

1-   Yếu Tố Trực Tiếp : Làm chậm lại trong tất cả mọi hành động của mình trong thân, khẩu, ý và phải nhớ cho thật đúng và chính xác,  đừng nhớ mang máng vì đấy là hình thức của Tưởng trong khi Niệm là nhớ nghĩ không quên.

2-   Yếu Tố gián tiếp ; Luôn thân cận với những người có Chánh Niệm .

Con cũng kính xin tri ân Giảng Sư Sán Nhiên đã nhiều lần nhắc nhở rằng cấu trúc theo số thứ  tự của các bài kinh trong Trung Bộ Kinh là một sự siêu tuyệt từ bộ nhớ siêu việt của Ngài A Nan(  nhất là bài 1 đến bài 16 ) dù cho qua bao lần kết tập kinh điển không ai có thể sửa đổi.

Kính xin được đúc kết vài điều được học với vài vần thơ thô thiển...

 

Kính đa tạ Giảng Sư,

.....với 18 giờ thuyết giảng bài kinh NIỆM XỨ

Bài thứ 10 theo thứ tự trong Trung Bộ Kinh,

Tuyệt vời cấu trúc ...khéo huấn luyện tâm linh

Diệt lậu hoặc, không sợ hãi, gột rửa nhiễm ô...

....dồi trau Chánh Tri Kiến !

 

Đấng Thiện Thệ, Ngài giới thiệu ...

...THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP để niệm niệm

Nhớ nghĩ không quên ...Thức tướng Pháp đã tìm ra

Vô Thường, Vô Ngã, Khổ Đau..có Ta, của Ta !

Đây con đường độc đạo hãy tiến bước...

....Sẽ thẳng tắp, đạt chánh trí, thù thắng!


Kính tri ân Giảng Sư...

...cách trình bày diệu lý...hình thức ban tặng

Chánh Pháp hy hữu khiến người hoan hỷ thực hành

Sống trong Pháp Bảo ..an lạc tự nội phát sanh

Hiểu Đạo rồi..quyết học theo Bát Chánh !

Kính ngưỡng Giảng Sư...điều tâm đắc nhất

“MỌI PHÁP MÔN ...chỉ PHƯƠNG TIỆN,

....nhưng chung CỨU CÁNH”

Niết Bàn đừng đi tìm ...Thực Tại đang là

Xin quay về nương tựa Tam Bảo...tháng ngày qua

Ân đức trao truyền giáo lý Phật...kính ghi tạc dạ !

 

Melbourne 31/12/2021

Huệ Hương

 

Chú thích:

(1)  Xứ Kuru là quốc độ nằm tại Bắc Ấn ngày nayddax được xếp chung vào thủ đô Dehli. Hiện vẫn còn di tích với bia đá do vua Asoka dựng lên đánh dấu nơi Đức Phật giảng bài kinh Niệm Xứ. Đặc biệt tên đô thị của Xứ này là Kaamassadhamma có nghĩa là “ Nhờ Pháp bảo mà thấy ra được những duyên sinh duyên hệ của nghiệp báo”.

(2) Sư  Sán Nhiên là hội viên của Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thủy dưới sự chứng nhận của Cố Tăng Thống Đại Trưởng Lão Thitasila Giới Nghiêm ( Sư Phụ của HT Viên Minh và Giới Đức ). Sư đã du học và tham dự các khóa thiền chuyên sâu tại Thái Lan và Miến Điện với các danh sư như Thiền Sư Đại Trưởng Lão U Kundala,Thiền Sư  Đại Trưởng Lão U Janaka, Thiền Sư Đại Trưởng Lão U Pandita cũng như đã tham dự các  hội nghị Phật Giáo quốc tế ,Sau 20 năm định cư trên đát Hoa Kỳ, sư đã tiếp tục hoằng pháp tại các tu vện trên nhiều tiểu bang . Sư là ủy viên của Phân Ban Chuyên Môn Phiên Dịch Đại Tạng Kinh , Với tâm nguyện mang giáo lý Đại Tạng Kinh đến gần gũi  với tứ chúng những năm gần đây, Sư đã dành phần lớn thời gian để dịch thuật bộ Đại Tạng Kinh từ văn hệ Pali sang Việt ngữ và một đại phước duyên đã đến với Sư trong chuyến đi thỉnh kinh điển từ Thái Lan vào năm2011. Và Sư đã tìm được 91 quyển thượng của Đại Tạng Kinh đã bị thất lạc từ lâu ở VN. Phước báu này đang được gìn giữ bảo tồn tại Vỉrginia  nơi Sư vừa lập thiền viện từ năm 2012.

 ***
facebook
youtube



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/01/2021(Xem: 5500)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5134)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5732)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6234)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5252)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5002)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5024)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5452)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 4870)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
24/12/2020(Xem: 4175)
Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]