Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ý thức và Vật chất

09/11/202121:46(Xem: 5578)
Ý thức và Vật chất

Ý thức và Vật chất
Ý thức và Vật chất
(意識與物質)

Điều đầu tiên chúng ta nhận thức vật chất, phải thông qua cơ thể của chính mình. Thậm chí có thể nói rằng, con người biết đến sự tồn tại của ý thức, thông qua cảm giác của thân thể. Ảnh hưởng của thân thể lên ý thức là điều hiển nhiên, giống như sự khó chịu và đau đớn do bệnh tật gây ra, khiến chúng ta nhận thức được sự tồn tại khách quan của tứ khổ sinh, lão, bệnh, tử. Ngược lại, tác động của ý thức đối với thân thể không rõ ràng; ví dụ, rối loạn tâm thần là do tình trạng căng thẳng quá mức, dẫn đến các vấn đề về thể chất như đau dạ dày, tức ngực, khó thở và tim đập mạnh. Thực chất nguyên nhân của bệnh tật bắt nguồn từ mức độ tâm lý và ý thức hơn là thân thể vật chất, do đó, các y phương liệu pháp y học cổ truyền không thể chữa khỏi hẳn. Có thể thấy, ngoài tình trạng uể oải và giảm khả năng miễn dịch, do bị áp lực căng thẳng quá mức sẽ trực tiếp gây ra các triệu chứng khác nhau trên cơ thể. 

Hơn nữa, với sự tiến bộ của y học hiện đại, con người có thể trắc lượng hoạt động của não, và trạng thái tinh thần bằng cách đo các dạng sóng EEG, để hiểu sâu hơn về tác động của ý thức. Trong cuộc sống hàng ngày, não bộ sẽ phát ra sóng Beta (β), trong trạng thái thiền định, sẽ phát ra sóng Alpha (α), khi chúng ta tham thiền nhập định sâu, sóng Theta (θ) hoặc Delta (δ) đồng thời phát ra. Điều này có nghĩa là khi hoạt động của não thư giãn, tần số sóng não sẽ chậm lại. 

Sóng não ở các trạng thái khác nhau (thông tin trực tuyến):

Phương pháp thiền định Phật giáo chủ yếu là Chánh niệm, niệm Phật, và thực hành Từ bi tâm. Trong bộ phim tài liệu "Tính cách và Chân tướng" (The Truth about Personality; 性格的真相) do đài BBC tổ sản xuất, người dẫn chương trình đã tu tập thiền chánh niệm Phật giáo suốt cả tuần: Luyện tập tĩnh tọa tu thiền trong 20 phút mỗi ngày, gác lại công việc và suy nghĩ, tập trung thiền tập quán niệm hơi thở. Dưới sự giám trắc của các nhà tâm lý học, họ nhận thấy chất lượng giấc ngủ, sự cảm nhận rất lạc quan. . . của gia chủ trong giai đoạn này được cải thiện đáng kể. Sau khi kết thúc khóa tu tập thiền định, người dẫn chương trình nói rằng Thiền chánh niệm Phật giáo có tác động tích cực, giúp cải thiện tình trạng tinh thần của các thiền sinh, và đáng để tiếp tục tu tập các khóa tiếp theo. 

Tình huống nêu trên rất dễ lý giải, thậm chí không cần các bác sĩ, chuyên gia y học giải thích, chúng ta cũng có thể tự mình cảm nhận được: Khi tâm chúng ta ở trong trạng thái thanh thản hồn nhiên và bình yên, cơ thể của chúng ta sẽ bớt bồn chồn hơn, nhịp thở và nhịp tim của chúng ta cũng sẽ bình ổn an định hơn. Nói cách khác, khi tâm trí định tĩnh lại đến một tần suất nhất định, các cơ quan khác của thân thể như tim, gan, lá lách, phổi và thận. . . cũng sẽ theo tần suất đó mà thư giản và đạt đến trạng thái hài hòa. Ngược lại, khi tinh thần bị áp lực quá mức, tâm niệm tư tưởng trở nên biến động, bức bách, và tần suất của các căn cơ khác cũng dao động lớn, và sẽ cảm thấy trong tâm với nỗi lo lắng bất an, giống như nỗi khổ của Ngũ ấm xí thịnh khổ (*) như trong Tứ Thánh đế đã đề cập. Vì vậy, đừng mưu cầu danh lợi một cách thái quá, hãy tạo nhiều thiện nghiệp, khiêm nhường, nhẫn nại nhiều hơn, quảng kết thiện duyên, và thường bảo trì tâm trạng an ninh tự tại, sẽ giúp bảo vệ thể chất và tinh thần của các bạn kiện khang. 

Hầu hết tâm trí mọi người luôn chi phối bởi duyên ngoại cảnh biến hóa, đây là điều mà đạo Phật nói "Cảnh tùy Tâm chuyển" (境隨心轉). Điều này tương ưng với khoa học. Theo cơ lượng tử của vật lý, bất kỳ hạt vi mô nào, chẳng hạn như electron, photon, v.v., có thể cùng tồn tại ở hai dạng khác nhau - hoặc điểm hình thái hay dạng sóng điện từ hiện. Khi được quan trắc không nhìn thấy các hạt bụi, chúng ta sẽ tự nhiên ở "trạng thái tự do", và chúng cũng cùng lúc có thể tồn tại ở những nơi khác; khi chúng được nhân loại quan trắc, các hạt bụi sẽ bị xáo trộn bởi ý thức của con người, và vị trí xuất hiện của chúng cũng sẽ bị ảnh hưởng, ảo biến thành một loại "trạng thái có hình dạng nhất định" (有確定形態的狀態). Khi người quan sát không còn chú ý đến nó nữa, nó sẽ chuyển sang "trạng thái tự do". Chúng ta có thể mở rộng từ mô hình thu nhỏ của cơ học lượng tử đến thế giới thực. 

Phương trình thể hiện Sự tương đương giữa khối lượng và năng lượng năm 1905 là một công thức nổi tiếng của Einstein.

Phương trình đó được viết như sau:

E=mc2 (trong đó: E là năng lượng, m là khối lượng, c là tốc độ ánh sáng trong chân không).

Công thức này có nghĩa là: Khối lượng và năng lượng tỉ lệ thuận với nhau theo hằng số c. Năng lượng có thể chuyển thành khối lượng và ngược lại, mà chúng ta đã học ở bậc trung học, cho thấy rằng năng lượng và vật chất có thể hỗ tương chuyển hóa, vật chất có thể hoán chuyển thành năng lượng, và năng lượng có thể được chuyển hóa thành vật chất. Bởi tâm niệm và ý thức của con người có thể phát ra sóng điện từ (từ trường của Tâm thức) có năng lượng xuyên qua não, năng lượng của từ trường tâm thức cũng có thể hóa thành vật chất, ảnh hưởng đến các thế giới bên ngoài cho điều kiện nhân duyên tạo thành nghiệp. Nhà vật lý học người Mỹ John Wheeler, một trong những cộng tác viên cuối cùng của Einstein, người nỗ lực hoàn thiện giấc mở của Einstein về lý thuyết trường thống nhất. John Wheeler có nhiều đóng góp cho quá trình nghiên cứu phản ứng phân hạch hạt nhân khi ông tham gia dự án Manhattan. Ông là người đã thúc đẩy các nhà vật lý tham gia vào nghiên cứu và phát triển thuyết tương đối rộng, ông cũng tin rằng ý thức có thể ảnh hưởng đến thế giới hiện thực con người nhận thức và cảm nhận được. Vì vậy, nó không thể có khả năng "Cảnh tùy Tâm chuyển" (境隨心轉). Đạo Phật thuyết "Nhất thiết duy Tâm tạo" (一切唯心造) hay "Vạn pháp duy Thức biến" (萬法唯識變), nghĩa là chư Phật, Bồ tát có thể vận dụng cường đại tâm niệm lực, để cải thiện hoàn cảnh bên ngoài, hóa độ chúng sinh. 

(*)Trong năm ấm (uẩn) hợp lại nên thân người, nếu chúng chẳng hòa đồng, có ấm nào thạnh quá thì làm cho mình khốn khổ nên gọi là ngũ ấm xí thạnh khổ, là một khổ trong bát khổ.

 1. Sắc thịnh: Nếu thân thể mình mập béo quá hoặc trao diện hình sắc thái quá, thì khiến cho mình bận tâm cực khổ.

 2. Thọ thịnh: Nếu mình cảm động thái quá thì tâm trí mệt nhọc, nhơn đó mà khổ.

 3. Tưởng thịnh: Nếu tưởng niệm mơ ước thái quá ắt phải chịu nhiều khổ não.

 4. Hành thịnh: Nếu mình tính mưu, liệu kế, hành động nơi lòng thái quá,thì luôn bất an não loạn.

 5. Đức thịnh: Nếu mình cố ý mà nhớ việc này, phân biệt chuyện kia thái quá sẽ khổ não.

 Trong Niết Bàn Kinh lại giải thêm rằng Ngũ ấm xí thạnh khổ là mối khổ thứ tám trong bát khổ nhưng nó gôm vào bảy thứ khổ trước đó là sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, cầu bất đắc khổ.


Tác giả: Phan Tông Quang

Biên dịch: Thích Vân Phong 

(Nguồn: 潘宗光教授網)

 

***

facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/01/2021(Xem: 5532)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5156)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5758)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6255)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5277)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5024)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5055)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5469)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 4885)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
24/12/2020(Xem: 4206)
Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]