Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 5 - Câu 94 đến câu 116

24/09/202118:46(Xem: 4084)
Bài 5 - Câu 94 đến câu 116

 

225 Câu trích dẫn giáo huấn

của Đức Đạt-lai Lạt-ma

His-Holiness-Dalai-Lama-tam-thuc

Đức Đạt-lai Lạt-ma

 

1- Tình thương yêu

2- Tiền bạc

3- Hạnh phúc

4- Lòng tốt

5- Sự đổi thay

6- Sự giận dữ và xung đột

7- Lòng từ bi

8- Các thể dạng tâm thần

9- Nhân loại

10- Sự u mê

11- Thế giới nội tâm

12- Hòa bình

13- Sự liên hệ giữa con người.

14- Tôn giáo

15- Trí tuệ

16- Tự biến cải chính mình

17- Khổ đau

18- Tâm linh

19- Sự sống

20- Bạo lực

21- Các câu trích dẫn khác của Đức Đạt-lai Lạt-ma

 

Bài 5

 

Câu 94 đến 116

8) Các câu trích dẫn của Đức Đạt-lai Lạt-ma

về các thể dạng tâm thần

 

Câu 94

 

Chủ động tâm thức đòi hỏi rất nhiều thời gian.

 

(thế nhưng việc luyện tập tâm thức giúp mình chủ động nó thì lại là bước đầu tiên trong việc tu tập Phật giáo)

 

(trích trong quyển L'Art de la compassion, id)

 

Câu 95

 

Rơi vào sự trầm cảm (depressive / trầm uất) là một thể dạng vô cùng trầm trọng

Phải tìm mọi cách để ra thoát tình trạng đó.

 

 

Câu 96

 

Mọi sinh hoạt mang lại lợi ích cho kẻ khác

đều là các hành động giúp cho tâm thức kiên cường hơn.

 

Câu 97

 

Chiếc chìa khóa mang lại một cuộc sống hạnh phúc và tròn đầy

chính là thể dạng tâm thức mình.

Điểm chủ yếu là chỗ đó.

 

Câu 98

 

Nếu rơi vào một cảnh huống hay một tình trạng

khó khăn nào đó nhưng không có cách nào làm cho nó biến đổi khác hơn được,

thì lo lắng để mà làm gì?

 

Câu 99

 

Sự phát lộ xúc cảm (emotionality) của chúng ta

tạo ra tình trạng mất thăng bằng thường xuyên trong tâm thức,

nếu tình trạng đó trở nên quá mạnh

thì nó sẽ ảnh hưởng tai hại đến sức khoẻ tâm thần của mình.

 

(trích trong quyển L'art de la compassion, id)

 

Câu 100

 

Trong cuộc sống thường nhật sự khoan dung và kiên nhẫn

sẽ mang lại thật nhiều lợi điểm,

giúp củng cố và duy trì sự tỉnh táo (presence / không xao động) trong tâm thức mình.

 

Câu 101

 

Các thể dạng tâm thần tích cực

là các liều thuốc hóa giải các xu hướng tiêu cực

và các thể dạng tâm thần gây ra ảo giác trong tâm thức mình.

 

(trích trong quyển L'art du bonheur, id)

 

Câu 102

 

Nếu muốn mang lại cho mình một niềm hạnh phúc thật sự

thì phải tạo được cho mình một tâm thức an bình.

Và sự an bình trong tâm thức đó

chỉ có thể thực hiện được nhờ vào lòng từ bi.

 

(trích trong quyển Sur la voie de l'éveil / Trên đường giác ngộ, Lời tựa Fabrice Midal, nxb Archipoche, 2017)

 

Câu 103

 

Nếu càng lương thiện và càng cởi mở thì bạn sẽ càng bớt lo sợ.

Bạn sẽ không còn cảm thấy một chút lo lắng nào

khi phải phơi bày hay tỏ lộ lòng mình với kẻ khác.

Nếu bạn lương thiện với chính mình

thì sự tự tin nơi bạn cũng sẽ trở nên vững chắc hơn.

 

Câu 104

 

Đối với tôi vấn đề tâm linh cũng chỉ đơn giản là sự biến cải tâm thức mình.

Và phương pháp hữu hiệu nhất để biến cải tâm thức

thật ra cũng chỉ đơn giản là cách tập cho mình biết suy nghĩ vị tha hơn.

Đạo đức thế tục áp dụng cho tất cả mọi người,

không phải chỉ là để dành riêng cho một nhóm người

tin vào tôn giáo này hay tôn giáo nọ.

 

Câu 105

 

Không có bất cứ ai có thể ép buộc chúng ta

phải biến cải tâm thức mình, kể cả Đức Phật.

Chúng ta làm việc đó với tư cách là chủ nhân của chính mình.

Và cũng chính vì thế mà Đức Phật đã từng tuyên bố:

"Chính bạn là người thầy của bạn".

 

(trích trong quyển L'art du bonheur, id)

 

Câu 106

 

Các gương mặt lớn trong lãnh vực tâm linh

là những người tự nguyện xóa bỏ mọi thể dạng tâm thần tiêu cực

hầu giúp mình hội đủ sức mạnh giúp đỡ chúng sinh hàm chứa giác cảm

đang mong cầu tìm được hạnh phúc.

Họ trông thấy được điều đó và ước vọng đó nơi tất cả chúng sinh,

thế nhưng sự thực hiện cần phải có một sự tự tin vô cùng to lớn.

Sự tự tin đó thật hết sức cần thiết,

bởi vì nó sẽ mang lại cho các bạn sự dũng cảm trong tâm thức,

giúp các bạn thực hiện được các tham vọng vô cùng to lớn đó.    

 

9) Các câu trích dẫn của Đức Đạt-lai Lạt-ma về nhân loại

 

Câu 107

 

Tất cả chúng ta đều  cùng là thành viên trong một gia đình nhân loại.

 

Câu 108

 

Khơi động được tiềm năng và sự tự tin nơi mình,

thì mình sẽ kiến tạo được một thế giới tốt đẹp hơn.

 

Câu 109

 

Không có bất cứ ai sinh ra dưới một ngôi sao xấu cả,

mà chỉ có những người không biết đọc các vì sao trên trời.

 

Câu 110

 

Người ta xem chân tay mình là thành phần của thân thể mình,

thế nhưng tại sao lại không đối xử với con người như là thành phần của nhân loại?

 

Câu 111

 

Thế giới là của nhân loại, không phải là của bất cứ một vị lãnh tụ nào cả,

dù cho vị ấy là một vị vua, một hoàng thân hay một vị lãnh tụ tôn giáo cũng vậy.

Thế giới là của toàn thể nhân loại.

 

Câu 112

 

Nhu cầu về tình thương yêu là nền tảng của nguyên lý tương liên (interdependence)

buộc chặt người này với người kia.

Dù cho một người nào đó có thật nhiều năng khiếu và khôn khéo đến đâu đi nữa

thì cũng không thể nào sống còn một cách đơn độc được.

 

Câu 113

 

Khi nào các bạn cảm thấy nghi ngại chính mình,

mất hết sự tự tin nơi mình,

thì hãy cứ nghĩ đến tiềm năng tuyệt vời của con người

và thật ra thì cũng chính là của các bạn.

Tiềm năng đó chỉ chờ được nẩy nở mà thôi.

Khám phá ra kho báu đó bên trong các bạn,

thì các bạn tất sẽ tạo được hạnh phúc cho mình.

 

Câu 114

 

Tôi tin nơi sự ích lợi của giáo dục.

Điều đó có nghĩa là phải nêu cao tính cách đồng nhất của toàn thể nhân loại.

Trên thực tế tương lai của một lục địa tùy thuộc vào các lục địa khác.

Đất nước tôi, xứ sở tôi, là một khái niệm sai lầm.

Tinh thần dân tộc đã lỗi thời.

 

(trích trong bài phỏng vấn Đức Đạt-lai Lạt-ma của ký giả H. Thibault trên nhật báo Le Monde)

 

Câu 115

 

Với tư cách là con người ý thức được sự tự do,

chúng ta hãy sử dụng trí thông minh mà chỉ con người mới có

để tìm hiểu chính mình và thế giới chung quanh mình.

Thế nhưng nếu chúng ta bị ngăn chận,

không được phép sử dụng tiềm năng sáng tạo của mình,

thì điều đó có nghĩa là chúng ta bị tước đoạt

một trong các đặc tính căn bản nhất của con người.

 

Câu 116

 

Tôi nói với các bạn với tư cách một con người,

và cũng xin các bạn không bao giờ nên quên là các bạn cũng là những con người,

trước khi trở thành một người Mỹ, một người Tây phương, một người Phi châu,

một thành viên của nhóm tôn giáo này hay nhóm tôn giáo khác,

thuộc chủng tộc này hay chủng tộc kia.

Các đặc tính đó chỉ là những gì thứ yếu.

Không nên đặt chúng lên trên tất cả.

 

(trích trong quyển Faites la révolution, id)

 

                                                                                                Bures-Sur-Yvette, 24.09.21

                                                                                                 Hoang Phong chuyển ngữ

(còn tiếp)

 



***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5612)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6925)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4312)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9148)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5477)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5108)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5701)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6197)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5203)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]