Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Heo Rừng Có Trí Khôn và Tình Thương

20/09/202110:52(Xem: 6300)
Heo Rừng Có Trí Khôn và Tình Thương

Heo Rừng Có Trí Khôn và Tình Thương (2)

Heo Rừng Có Trí Khôn và Tình Thương
Nguyên Giác

Trí tuệ và từ bi có phải chỉ riêng nhân loại mới có? Hay là, loài vật cũng có trí tuệ và từ bi, nhưng ở mức sơ khai hơn? Cuộc nghiên cứu mới đây về heo rừng cho thấy những bất ngờ về mức độ cao của khôn ngoan và tình thương nơi một trường hợp khảo sát.

Cuộc nghiên cứu của các nhà khoa học tại Czech University of Life Sciences Prague cho thấy lần đầu tiên ghi lại đầy đủ hình ảnh về trường hợp được ghi lại trên báo Business Insider hôm 5/9/2021 qua bản tin nhan đề “A family of wild boars organized a cage breakout of 2 piglets, demonstrating high levels of intelligence and empathy” (Một gia đình heo rừng tổ chức phá cũi, cứu 2 heo con, cho thấy mức độ cao của trí tuệ và thương xót). (1)

Các hình ảnh ghi lại cho thấy một heo rừng cái đã giúp 2 con heo nhỏ thoát ra khỏi 1 chuồng bẫy. Con heo rừng cái, dựa theo kích thước và tính phái nên được suy đoán là heo mẹ, đã tìm các chiến thuật để đẩy bật các thanh gỗ chốt đang chặn cửa chuồng bẫy. Các nhà khoa học tại Czech University of Life Sciences Prague nói rằng đây là lần đầu tiên ghi lại được hình ảnh xúm lại cứu heo mắc nạn trong loài heo rừng. 

Heo Rừng Có Trí Khôn và Tình Thương

Bài báo trên tờ Scientific Reports nói rằng cách heo rừng cứu 2 heo con trong trường hợp này cho thấy trình độ cao của sự khôn ngoan và lòng thương xót. Chuyện xảy ra vào tháng 1/2020, được ghi lại bởi một nhóm khoa học gia từ đại học Czech University of Life Sciences tại khu vực bảo tồn thiên nhiên Voděradské Bučiny National Nature Reserve.

Một bẫy heo rừng, dùng bắp làm mồi bẫy, dựng lên để giúp các nhà khoa học sẽ nghiên cứu về các biện pháp ngăn ngừa dịch African Swine Fever (bệnh dịch tả lợn Châu Phi, viết tắt là dịch ASF). Một máy quay phim ghi lại hình ảnh 2 con heo con lọt vào bẫy và kẹt trong vòng 2 giờ 30 phút. Một nhóm 8 con heo nhỏ khác tới gần chuồng bẫy, lãnh đạo là một con heo rừng cái đã lớn hoàn toàn. 

Trong nỗ lực cứu 2 heo con ra khỏi chuồng bẫy. con heo cái lớn đã húc vào, ủi vào, nạy tới, nạy lui các điểm chiến lược, nơi các thanh gỗ gài chận cửa chuồng bẫy. Hình ảnh cho thấy lông bờm của con heo cái dựng cao lên, hiện tượng gọi là piloerection, mà các nhà khoa học gọi là dấu hiệu của căng thẳng hay nổi giận. 

Các nhà khoa học nói rằng có vẻ là những con heo rừng khác cũng đang tìm cách giúp heo mẹ trong chiến dịch cứu 2 heo con ra khỏi cũi. 

Trong vòng 6 phút đồng hồ của chiến dịch cứu 2 heo con, con heo cái đẩy bật được thanh gỗ đầu tiên ngăn chận mặt trước của chuồng bẫy. Nhưng toàn bộ chiến dịch cứu nguy đã kéo dài 29 phút đồng hồ, sau thời điểm đó, toàn bộ hai then gỗ chèn trước và sau của 2 cửa chuồng được heo mẹ đẩy văng ra, và các heo con chạy ra.

Bản tin Business Insider đăng nhiều tấm hình, trích xuất từ băng video giải cứu dài khoảng nửa giờ đồng hồ. Hình phổ biến là từ nhà khoa học Michaela Másílková tại đại học Czech University of Life Sciences Prague. Trong đó, có 4 tấm cho thấy thứ tự phá cửa chuồng để giải cứu.

Heo Rừng Có Trí Khôn và Tình Thương (3)

Hình a: Hai heo con dính bẫy do các nhà nghiên cứu dựng lên. 

Hình b: Con heo cái, được suy đoán là heo mẹ, dựng lông bờm, dấu hiệu căng thẳng. 

Hình c: Heo mẹ đẩy, ủi bật thanh gỗ mặt trước cửa chuồng. 

Hình d: Heo mẹ phá bật các then gỗ mặt trước và mặt sau của bẫy, cho 2 heo con thoát ra. 

Các nhà khoa học nói đây là trường hợp đầu tiên ghi lại được heo tới cứu nguy heo khác, mà vài người gọi là một “hình thức phức tạp của thấu cảm” (“complex form of empathy"). Bản báo cáo cũng nói, hành vi cứu đồng loại chỉ được ghi nhận trong vài loài vật, trong đó có chuột và kiến.

Các nhà khoa học nói hành vi cứu nguy trong heo rừng không phải là điều ngạc nhiên, nhưng cách loài vật có khả năng suy nghĩ phức tạp và có quan hệ xã hội thương cảm mới là điều bất ngờ. 

Để được xem là hành vi giải cứu, cần phải đáp ứng 4 điều kiện.  Các điều kiện đó là: con thú gặp nạn phải căng thẳng, đau khổ; con thú hiệp sĩ cứu nguy phải tự chấp nhận đưa mình vào chỗ nguy hiểm; hành động của con thú hiệp sĩ cứu nguy phải thích nghi với tình hình tại chỗ của con thú gặp nạn; và phải không có lợi ích tức khắc nào hay phần thưởng nào cho con thú hiệp sĩ cứu nguy.

Trường hợp này, các nhà khoa học nói, con heo rừng cái đã đáp ứng cả 4 phương diện trên. Bản báo cáo viết, hành vi cứu nguy khác với các hình thức khác của sự giúp đỡ trong các tổ chức phức tạp. 

HÌNH ẢNH HEO RỪNG TRONG PHẬT GIÁO

Trong Phật Giáo, giữ truyền thống không sát sanh, nên trong giới luật không cho giết bất kỳ sinh vật nào. Trong Truyện Bản Sanh, Tundila Jataka (#388), có kể về một kiếp trước của Đức Phật: lúc đó, Bồ Tát là một con heo rừng.

Một hôm, Bồ Tát (lúc đó là một heo rừng) cùng với mẹ và một em heo đang nằm trong một cái hố, thì một cụ bà chống gậy đi tới gần. Heo mẹ kinh hoàng khi nghe tiếng gậy gõ trên mặt đất, đã phóng chạy, để lại 2 con heo nhỏ phía sau. Cụ bà cảm thấy thương xót 2 heo con, đặt vào giỏ và đưa về nhà nuôi như nuôi trẻ con.

Khi 2 heo nhỏ này lớn lên và mập ra, nhiều người đòi mua đều bị cụ bà từ chối, không chịu bán. Cho tới một hôm, trong một lễ hội, khi vài người đàn ông hết thịt, và muốn có thịt ngay. Sau khi bị cụ bà liên tục không chịu bán, những người đàn ông này mời cụ bà uống rượu cho tới say mèm, và rồi cụ bà đồng ý bán heo em của Bồ Tát.

Cụ bà đổ cơm vào máng và gọi heo em của Bồ Tát tới ăn. Khi heo em thấy những người đàn ông lạ cầm dây thòng lọng đứng gần máng, heo em biết là sắp chết, nên chạy tới heo anh (tức Bồ Tát, tiền thân Đức Phật) và đứng run sợ. 

Bồ Tát nói với heo em rằng đó là số phận của tất cả các con heo do người nuôi, do vậy ngài không thấy đau đớn, mà chấp nhận định phận một cách an vui. Rồi Bồ Tát giảng cho heo em về tâm từ vô lượng, lúc đó âm thanh của ngài vang khắp cõi nước, mọi người đều nghe rõ. 

Bài giảng của ngài rất thanh tịnh và thuần khiết tới nỗi nhiều người búng ngón tay và vẫy khăn khen ngợi. Nhà vua cho triệu tập 2 heo này tới lâu đài và đối xử như 2 con trai của vua, cho mặc trang phục và mang châu báu. 

Bồ Tát trở thành vừa là một thẩm phán, vừa là một cố vấn tinh thần. Sau khi nhà vua từ trần, Bồ Tát viết một cuốn sách về công lý, sách này được cõi nước này tuân phục trong 60 ngàn năm, và rồi Bồ Tát lui về rừng cùng với heo em để sống những ngày cuối đời.   

 

Đức Phật giải thích rằng con heo em kia là tiền thân của một trong các môn đệ của Đức Phật. Vị này có nỗi sợ dày đặc về cái chết. Nhà sư này đã bỏ chạy, run rẩy mỗi khi nghe những tiếng động nhỏ, như là tiếng một cây gậy rơi hay là tiếng con chim hót. Khi Đức Phật nghe các môn đệ của ngài nói về nỗi sợ của nhà sư kia, Ngài mới kể chuyện này, để họ biết rằng đó không phải lần đầu tiên vị sư kia có nỗi sợ chết.

Nhà vua kia là tiền thân của Ananda, một trong những môn đệ hàng đầu của Đức Phật. Và đám đông từng nghe bài giảng của Bồ Tát nơi kiếp trước về tâm từ vô lượng bây giờ là các học trò của Đức Phật.


GHI CHÚ:

  1. Bản tin trên Business Insider: https://www.businessinsider.com/wild-boar-rescued-two-piglets-from-a-trap-2021-9 



facebook-1

***
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2020(Xem: 8029)
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NI TRƯỞNG THƯỢNG NGUYÊN HẠ THANH Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thánh Tổ Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di Mẫu Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý Thiện nam, Tín nữ xa gần, Thật là vinh dự cho chúng con/ chúng tôi hôm nay được viết những dòng giới thiệu này cho tuyển tập “Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ” (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States) do Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Chùa Hương Sen, đứng ra biên soạn và xuất bản.
17/11/2020(Xem: 5790)
Nhân loại đã biết cách bay lên mặt trăng, tuy nhiên nhiều nơi trên địa cầu vẫn còn bị ràng buộc với những thói quen xưa cổ, trong đó một thành kiến khó rời bỏ là xem nhẹ phụ nữ. Hầu hết các tôn giáo cũng xem nhẹ phụ nữ. Riêng trong Phật Giáo, phụ nữ từ xưa vẫn có một vị trí đáng kính và bình đẳng trên đường học đạo, để tận cùng là thành tựu Niết Bàn. Khi vua Pasenadi nước Kosala không vui vì hoàng hậu Mallikà sinh một bé gái, Đức Phật trong Kinh SN 3.16 dạy vua rằng: "Này Nhân chủ, ở đời / Có một số thiếu nữ / Có thể tốt đẹp hơn / So sánh với con trai / Có trí tuệ, giới đức..." Hơn hai mươi thế kỷ sau, ý thức nữ quyền mới trở thành phong trào. Theo định nghĩa cô đọng và đơn giản, nữ quyền là niềm tin vào sự bình đẳng của nữ giới với nam giới về chính trị, kinh tế và văn hóa. Do vậy thường khi, nữ quyền gắn liền với dân quyền, vì bình quyền nam nữ dẫn tới ý thức bình quyền cho từng người dân, đặc biệt là nơi các dân tộc đang bị các nước thực dân thống trị, hay nơi các sắc tộc thiểu số
16/11/2020(Xem: 4805)
Vào ngày 8 tháng 11 vừa qua, Hội đồng Thống nhất Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo Bangldesh (Bangladesh Hindu Bouddha Christian Oikya Parishad; BHBCOP), đã tổ chức một chương trình tập hợp và biểu tình hàng loạt trên toàn quốc để phản đối các cuộc tấn công, đốt phá, tra tấn và giết hại người tôn giáo thiểu số tại Bangldesh. Là một phần của cuộc biểu tình, họ đã thành lập các chuỗi người và các cuộc biểu tình từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa tại các giao lộ chính của các trụ sở cơ quan chính quyền cấp quận, huyện, thành phố và tỉnh trên khắp đất nước, bao gồm cả giao lộ Shahbagh, Dhaka và giao lộ ngã tư New Market, Chittagong.
16/11/2020(Xem: 5478)
Vào giữa thế kỷ thứ mười bảy, Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh tầm quan trọng như thế nào để việc phân tích không trở thành một bài học thuộc lòng như vẹt mà phải là sống động. Khi chúng ta tìm kiếm cho một “cái tôi” tồn tại cụ thể như vậy mà không thể tìm kiếm được nó hoặc là cùng giống hay khác biệt với tâm thức và thân thể, điều thiết yếu là phải tìm kiếm cùng khắp; bằng khác đi chúng ta sẽ không cảm thấy tác động của việc không tìm thấy nó. Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã viết:
15/11/2020(Xem: 6064)
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde, một tổ hợp báo chí uy tín và lâu đời của nước Pháp. Một số câu được trích nguyên văn từ các bài kinh, trong trường hợp này nguồn gốc của các câu trích dẫn đó sẽ được ghi chú rõ ràng, trái lại các câu đã được rút gọn, chỉ giữ lại ý chính, sẽ không có chú thích về nguồn gốc. Ngoài ra trong bài 1 trước đây, người chuyển ngữ đã mạn phép ghi chú dài dòng với hy vọng có thể giúp một vài độc giả theo dõi dễ dàng hơn chăng các lời trích dẫn đôi khi khá cô đọng hoặc trừu tượng? Dầu sao thiết nghĩ sự suy tư và phán đoán là quyền hạn ưu tiên và thiêng liêng của người đọc, vì lý do đó kể từ bài 2 này, người chuyển ngữ sẽ mạn phép chỉ xin ghi chú thêm một vài suy nghĩ riêng của mình khi cảm thấy cần thiết. Độc giả có thể xem bản gốc tiếng Pháp của các câu trích dẫn này trên trang mạng của báo Le Monde: https://dicocitations.lemonde.fr/auteur/616/Bouddh
14/11/2020(Xem: 6465)
Kính mạn phép được thay đổi lại lời của một bài hát mà âm điệu đã thấm sâu vào huyết quản tôi từ bao giờ và hôm nay một lần nữa lại vang vang ...nửa như kích thích sự hưng phấn trong tôi nửa như khuyến khích tôi phải trình bày vì sao tôi thấy ra được điều này " Một niềm an vui hạnh phúc hỷ lạc thật sự có mặt và có thật trong mỗi con người chúng ta "
13/11/2020(Xem: 5166)
Từ khi có Lục tổ Huệ Năng đưa ra lý thuyết chúng sanh có sẳn Tánh Giác gọi là Phật Tánh trong người nhưng vì bị Ý thức che mờ đi nên cần ngồi thiền vén lớp ý thức này ra thì Phật tánh sẽ hiện ra thành Phật nên không cần kinh luật bất lập văn tự mà tu. Rất nhiều người bình dân phương nam đi theo một thời đông đảo. Câu hỏi được đặt ra là tánh giác này có trước hay sau ý thức? Thế nên mới đưa ra kế tiếp là giác ngộ rồi mới khởi tu tức là học kinh Phật. Vì Giác ngộ đến Giải thoát sinh tử là một chặng đường rất dài có khi rất nhiều kiếp cần trãi nghiệm. Vậy chúng ta nghiên cứu giác ngộ trước.
13/11/2020(Xem: 4816)
Nhân khi đọc bài Thành Tựu Niết bàn của Cư sỹ Nguyên giác Phan Tấn Hải, chúng tôi xin phép kết hợp với thuyết big bang của Stephen Hawking và tiến trình giác ngộ của Đức Phật, và sự sống và chết theo Phật giáo để luận bàn về Niết bàn, giải đáp thắc mắc đức Phật chết rồi đi về đâu? Đây chỉ là khởi niệm mới lạ, biết đâu tương lai sẽ có người chứng minh được.
13/11/2020(Xem: 4761)
Phương tây từ thế kỷ thứ 18 đã từng phát huy cái ngã cái tôi của con người như “tôi suy tư là tôi hiện hữu”. Từ đó đến nay người Phuơng tây phát triển cái tôi, đưa đến tôn trọng cái tính riêng biệt cũa cái tôi từ triết lý đến luật pháp. Nhưng đạo phật lại diệt ngã thì làm sao mà hoằng pháp cho người Phương tây tu theo phật được? Làm sao giải thích được ý nghĩa diệt ngã của đức Phật? Vậy ta có thể giải thích là không phải ngã? Khi người ngồi thiền định dưới cội bồ đề 49 ngày, người đạt giác ngộ và đập tay xuống đất mà nói ta đạt được chánh đẵng chánh giác do trời chứng , ta chứng và đất chứng.
13/11/2020(Xem: 4578)
Thiền tông luôn luôn nhấn mạnh “Tánh không có hai” cho đó là ý thức phân biệt nên che mờ tánh giác của chúng sanh. Vì thế thiền là vén bỏ đi ý thức vô minh này. Câu hỏi đặt ra là Tánh không phân biệt này cần thiết khi nào? Và nó thật chất là gì? Nên nghiên cứu sâu về nó. Kể từ khi lục tổ Huệ Năng đưa ra phép tu tập Vô Niệm cho thiền tông thì tánh vô phân biệt là cốt lỏi của thiền. Vô niệm là vô là vô phân biệt thì niệm là niệm Chân Như sẽ hé lộ ra mà không cần hành giả phải làm gì hết gọi là Đốn Ngộ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]