Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện Tích: Thân Hòa Đồng Trèo

26/07/202110:51(Xem: 5315)
Truyện Tích: Thân Hòa Đồng Trèo


treo cay

Thân Hòa Đồng Trèo 

Trần Thị Nhật Hưng



Buổi trưa hè miền Trung, cái nắng nóng làm như ông Trời gôm hết lửa đổ xuống trần gian thiêu rụi vạn vật, không ai chịu nổi. Tất cả đều rúc hết vào nhà, đóng cửa trốn ông Trời, tranh thủ thời gian đó nghỉ ngơi. Hầu hết tìm giấc ngủ trưa để quên đi thời tiết khắc nghiệt. Chỉ riêng bốn đứa...tứ tặc gồm Nam, Thanh Du, Hiền và Bích Nga lang thang trên đường phố. Chúng la cà từ Ngã Tư Chính trung tâm phố đi lần về trường trung học Hùng Vương chỉ cách đó không xa, khoảng 15 phút đi bộ, nơi bốn đứa cùng học chung lớp đệ thất (lớp 6 bây giờ) dù Thanh Du và Hiền 12 tuổi đều hơn Nam và Bích Nga một tuổi.

  Biết Nam và Thanh Du là đứa hay tinh nghịch hiếu động, ít chịu ở nhà dù trời nắng nóng, ông bà Khang, thân sinh hai đứa thường bày ra việc để cột chân hai đứa ở nhà nếu không chịu ngủ trưa.

  Thanh Du có nhiệm vụ nhổ tóc sâu cho mẹ trên gác. Tóc sâu còn gọi là tóc ngứa, loại tóc bạc ngắn độ một đốt ngón tay ẩn trong mớ tóc đen dày cộm hay làm cho ngứa. Còn Nam nhổ tóc sâu cho bố dưới nhà.

    Ông Khang nằm soải mình trên một chiếc di văng nhỏ đặt đầu trên chiếc gối cao. Đối diện ông, trên chiếc ghế đẩu thấp, Nam ngồi chúi mặt vạch từng lớp tóc trên đầu ông tìm kiếm tóc sâu như cảnh sát vạch cây lá lùng quân gian. Những sợi tóc sâu êm ái rời khỏi đầu qua chiếc nhíp nhỏ, đã lắm, nhanh chóng ru ông Khang vào giấc nồng. Chỉ dăm mười phút sau ông Khang ngáy khò khò, thả hồn vào giấc mộng không biết trời trăng gì nữa. Đoán ông đã ngủ say, Nam rón rén dứng dậy, sau khi gom tất cả những cọng tóc sâu vừa nhổ, cả những sợi tóc bạc dài Nam ranh mãnh bứt ra thành nhiều sợi ngắn làm như...thu hoạch nhiều chiến công để chứng tỏ với ông Khang thành quả của mình, rồi Nam gói trong tờ giấy trắng xếp làm tư, đặt cái nhíp lên trên để bên đầu giường ông nằm. Xong đâu vào đấy, Nam mon men lên gác ra hiệu Thanh Du rút lui, cùng lúc bà Khang cũng say sưa trong mộng điệp tự lúc nào.

   Bốn đứa Nam, Du, Hiền, Bích Nga hẹn tụ họp nhau không khó. Vì nhà Hiền bên kia đường gần Ngã Tư Chính đối diện xeo xéo nhà Nam. Còn nhà Bích Nga bên này đường cách nhà Nam vài căn. Chúng chỉ cần lấp ló ho vài tiếng báo hiệu và ngoắc một cái là bốn đứa đã gặp nhau. 

    Lang thang giữa trời nắng nóng, thời tiết khắc nghiệt không làm chúng ngại, nhưng la cà mãi cũng chán, cuối cùng chúng dừng chân tại một cây trứng cá nằm một góc ngã tư đường, đồng thanh “Thân Hòa Đồng Trèo„ thoắt một cái bốn đứa trụ luôn trên cây trứng cá trước khách sạn Đồng Khánh của bà Xì Thố. 

   Bà Xì Thố là một người Tàu chính hiệu con nai vàng không lai chút nào cả. Sự hiện diện của bà tại Việt Nam và định cư tại miền Trung không ai rõ từ lúc nào. Mọi người đoán già đoán non, bà là hậu duệ của người Hán tộc thuộc nhà Minh chống đối Mãn Thanh rồi chạy qua Việt Nam lánh nạn để tránh sự truy lùng tiêu diệt của nhà Thanh. Và thiên hạ hay gọi những thành phần như bà là Minh Hương. Dù đã nhiều thế kỷ và đã sinh sống lâu năm tại Việt Nam, tổ tiên gia tộc bà vẫn giữ truyền thống cổ xưa để tỏ lòng trung thành với triều đại phong kiến cũ và lòng hoài cổ với nhà Minh thể hiện qua việc đàn bà con gái vẫn giữ tập tục bó chân chứng tỏ mình thuộc giới quí tộc thượng lưu và duy trì văn hóa người Hán. Do vậy, bà Xì Thố có đôi bàn chân bị bó nhỏ xíu.

   Cây trứng cá trụ trước khách sạn của bà Xì Thố ai trồng từ hồi nào không ai hay cũng không ai cần biết. Chỉ biết là hiện giờ nó cao lớn gần mái nhà, cành lá sum suê tỏa bóng râm mát rất dễ chịu giữa cái nắng nóng như đổ lửa của miền Trung.   

   Cây trứng cá luôn thu hút bọn trẻ con, không chỉ bởi bóng mát mà cây trứng cá còn cho chúng những quả ngon ngọt mềm mềm đỏ rực khi chín, hồng hồng khi ương ương. Trái trứng cá lớn cỡ viên bi, lúc còn sống màu xanh và cứng ngắt, bọn trẻ con thường dùng làm đạn luồn dây thun làm ná hay dùng ná thật bắn nhau.

IMG_0165.JPG

   Vắt vẻo trên cành cây trứng cá, bốn đứa như bốn con khỉ con, chuyền từ cành này sang cành kia để hái những quả trứng cá chín cho vào miệng. Chúng ăn ngon lành. Mạnh đứa nào tự kiếm cho mình những chiến lợi phẩm.Và khi trên cây chỉ còn những quả xanh không ăn được, mỗi đứa chọn cho mình một thân cành chắc chắn soải mình nghỉ ngơi. 

   Ngước mặt mông lung nhìn lên trời cao, xuyên qua những chiếc lá trứng cá nhỏ, từng đám mây trắng xóa lững lờ bay ngang trong tầm mắt của Nam. Bỗng Nam cất tiếng hỏi:

- Ê, tụi bây, đám mây kia bay hoài, bay mãi, nó bay về đâu, tụi bây biết không?

- Mày hỏi nó chứ sao hỏi tụi tao. Bích Nga trả lời.

- Tao đã hỏi nó nhiều lần, nhưng nó không thèm trả lời tao, nên tao mới hỏi tụi bây.

Tiếng của Hiền đáp:

- Nó bay về phương trời vô định!

- Vô định là đâu?

- Ngu nà. Vô định là không định. Không có chân trời! Thanh Du góp tiếng. Nam vẫn thắc mắc:

- Không lẽ nó cứ bay mãi bay hoài không biết mệt?

- Mệt chớ, nên đôi khi tao thấy nó dừng, đứng một chỗ nghỉ ngơi.

- Nghỉ ngơi? Nghỉ ngơi để xả hơi và đi ...toa lét hả?

- Ờ! Đúng rồi. Nó đi toa lét,...tè xuống trần mới thành mưa đó!

- Hèn gì!

- Nhưng mày ạ, sao có lúc tao thấy có những đám mây đen thui. Tại sao vậy?

- Thì những đám mây đó bay đến từ... Phi Châu thì nó phải đen thôi. Còn mây trắng đến từ nước Mỹ thì nó trắng.

- Còn đến từ Á Châu da vàng thì sao?

- Có những lúc mày cũng thấy mây hồng hồng vàng vàng nhất là buổi chiều đó.

   Câu chuyện vớ vẩn chỉ có thế mà bọn chúng ríu rít hằng giờ trên cành cây cứ như đàn chim non mải miết líu lo, không để ý cánh cửa khách sạn Đồng Khánh xịch mở rồi bà Xì Thố chân bước liêu xiêu như con robot chậm chạp tiến về cây trứng cá. Bà hóng mặt nhìn lên bọn trẻ, nói:

- Lày, tụi..pây..đám con..lít (nít) từ đâu..đến phá làng phá xóm...ha? 

   Tiếng của bà cất lên, âm hưởng giọng Tàu rặc dù bà sinh trưởng và sinh sống tại Việt Nam lâu năm. Đám bọn Nam nhìn xuống nhận ra bà Xì Thố, người mà hằng ngày đi học ngang qua, bọn chúng thường gặp bà ra vô lấp ló bên song cửa hoặc đôi khi bà ra quét sân nhà.

   Bà Xì Thố có vóc người nhỏ thó, tương xứng đôi bàn chân bị bó nhỏ xíu nhờ vậy bà có thể đi lại dễ dàng nhưng chỉ chậm thôi. Mái tóc hoa râm cắt bum bê úp gọn vào gáy. Phía trước bà còn cài chiếc băng đô bằng nhựa màu hồng vén gọn mái tóc lòa xòa trước trán. Bà mặc bộ đồ bộ vải sa teng bóng loáng màu hường nhạt, trông bà ra dáng Tàu rặc không pha chút nào cả. Nghe tiếng bà cất lên, bọn trẻ như đàn chim non giật mình nhưng không vỗ cánh bay đi, Nam nhanh nhẩu cất tiếng chào:

- Ngộ ái nị ha...!

 Bà Xì Thố nhăn mặt:

- Khôn..g ngộ, nị gì ở tâ..y (đây) hết ch.ơ.n (trơn) á. Tụi...pây ch.è.o..(trèo) xuống khô..n..g?

Nam giả giọng lơ lớ ngọng ngọng như của bà, đáp:

- T..ươ..ng..(đương) nhiên là khô..n..g!

- Không xuống té chết a!

- Chết ngộ chứ không chết nị à!

 Đứa khác tiếp lời:

- Mấy ngộ mình đồ..n (đồng) da sắt ha, có té chỉ pể nền nhà nị thôi ha...!

   Thấy bọn trẻ nhại giọng Tàu của mình, “chưởi cha không bằng pha tiếng„ bà Xì Thố hơi có chút bực bội, bà nói với giọng giận dữ:

- Mấy tứa (đứa) pây lì lợm không xuống, tau đập..chết..cha..pây!

- A, nị khiêu chiến ha! Tàu khiêu chiến với Việt Nam ha!

- Nị mà đánh..“chết cha“ ngộ, tụi ngộ.. tèo xuống xúm nhau đánh…“chết..mẹ“..nị!

- Mấy đứa pây hỗn ha! Tụi pây có xuống hết không ha?

- Cây..tứng (trứng) cá lày ở trên đất nước ngộ, pọn ngộ có quyền sử dụn..g, muốn…tịnh (định) cư luôn ở ..tây (đây) ha!

- Tụi pây làm lá rụn..g  tầy (đầy) sân, ai quét ha?

- Nị cứ về Tàu mà ở đi, thì khỏi quét ha!

   Biết cãi với bọn chúng chỉ vô ích, bà Xì Thố lẩm chẩm từng bước vẫn như con robot đi vào nhà. Bọn trẻ tưởng như thế đã yên, ai dè, bà trở ra với chiếc chổi chà cầm trên tay. Bà đến gốc cây trứng cá nhìn lên, lớn giọng:

- Tụi pây có xuống hết khôn..g, tau... thọt lên pây giờ!

   Vừa nói, bà Xì Thố vừa thọt chổi chà lên cây. Bọn trẻ nhanh nhẩu như những con khỉ con lập tức trèo cao ngọn né tránh. Một đứa hét:

- Nị thọt lên nữa, pọn ngộ...pọn ngộ...Nói chưa hết câu, Nam tiếp:

- Phe ta chuẩn bị...tấn công! 

   Rồi Nam liên tục hái những quả trứng cá xanh tới tấp ném xuống bà Xì Thố. Đám bạn khác cũng bắt chước. Những...viên đạn lả chả rơi xuống tứ tung vô tình rơi lốp đốp trên chiếc nón cời của một bà già đang ngồi dựa dưới gốc cây. Đó là bà già bán bánh tráng gạo, bánh tráng khoai lang cho những trẻ đi học qua lại trường trung học Hùng Vương gần đó. Bà ngồi bán đã vài năm trời, quá quen với bọn trẻ con nghịch phá trèo cây, hết lớp này đến lớp khác, nhưng chưa lần nào ồn ào như lần này.

   Nãy giờ bà ngồi đó, chiếc nón cời đắp mặt để tránh cái hanh nắng của buổi trưa hè, không ai rõ, bà thức hay ngủ, nhưng những quả trứng cá trúng nón đã khiến bà lồm cồm đứng dậy, chỉa mặt nhìn lên cây, nói:

- Nè, đám con nít kia, tụi bây có dừng tay không? Tụi bây ném nhỡ trúng bánh tráng bể hết bánh của tao bây giờ. 

- Bà già an tâm, bọn tui chỉ...chiến đấu với người Tàu hống hách ngang tàng, chứ không với bà đâu.

- Nhưng tụi bây...

- Bà an tâm nha bà!

   Nói xong, bọn trẻ lại tiếp tục hái những quả trứng cá xanh cẩn trọng nhắm về hướng bà Xì Thố. Những...viên đạn có trúng cũng không làm bà Xì Thố đau, không nhằm nhò gì với bà, song thấy bọn trẻ trèo cao quá nhỡ sẩy chân té xuống có mệnh hệ gì thì ít nhiều bà cũng có phần trách nhiệm, không chừng phải đền mạng như chơi, bà chả dại, đành chịu thua, rồi lẩm chẩm vẫn như con robot từng bước chầm chậm xách chổi vào nhà.


   Đợi lâu, không thấy bà trở ra, “hòa bình đã thực sự trên quê hương ta„ bọn trẻ trèo xuống, rủ nhau ngồi xếp bằng trên đôi dép của mình, trước mặt bà bán bánh tráng:

- Bà già, bán cho cái bánh tráng khoai lang ăn, bà già!

IMG_2830.JPG

Vừa quạt than vừa nướng bánh, bà già nhẹ nhàng trách: 

- Tụi bây, con gái con ghiếc gì mà leo trèo hoang quá!

 Nam đáp:

- Con gái cũng là...con. Con trai cũng là…con. Con nào cũng có hai chân, tại sao không trèo được chứ?

- Trèo có ngày té chết!

- Bà thấy bọn tui có đứa nào chết đâu!

 Bà già lắc đầu, hỏi tiếp:

- Tụi bây con nhà ai vậy?

Thanh Du lí lắc:

- Con ông Thiếu úy!

Bích Nga:

- Tui con ông Trung úy!

Hiền a dua:

- Còn tui con ông Đại úy!

- Con ông Thiếu úy, Trung úy hay Đại úy gì gì mà hoang quá tao cũng đập chết!

- Còn tui con ông Tỉnh Trưởng nè! Nam chen vô.

- Tỉnh Trưởng nào mà không nhốt mày trong…dinh để mày lang thang ra ngoài vậy?

- Tui trèo tường ra ngoài!

Bà già trách yêu:

- Trời nóng nực như vậy, ở trong..dinh ngủ trưa có sướng hơn không!

- Không! Ngủ còn biết gì sướng. Thức, ăn bánh tráng sướng hơn!

 Đến lượt Nam hỏi lại bà:

- Bà già, trời nóng nực như vậy, sao bà không bán chè đá có mát mẻ hơn không? 

- Tao nghèo quá vốn đâu mà bán chè. Với lại tao cũng già gánh không nổi. Bán bánh tráng chỉ có mỗi lò than và mấy cái bánh tráng cũng nhẹ, lại ít vốn.

- Tội nghiệp bà già ha. Sao con cái bà không nuôi bà?

- Chúng cũng nghèo nên tao phải phụ, đỡ đần cho chúng chứ.

- Vậy hằng ngày ở nhà, bà già ăn gì?

- Thì cũng cơm với rau.

- Có thịt cá không?

- Cũng có nhưng ít lắm.

- Có ăn bánh mì xíu không?

- Ăn bánh mì không thì có, nhưng cũng ít khi lắm.

- Tội nghiệp bà già quá! Bà nè, nhà ba mẹ tui có lò bánh mì, để tui về nhà lấy bánh mì biếu bà ha!

Bà già thở nhẹ:

- Mày lại ăn cắp bánh mì của cha mẹ rồi cho tao hả?

- Không ăn cắp đâu. Tui sẽ xin cha mẹ chứ.

- Cha mẹ mày rầy chết!

- Còn không, tui sẽ nhường phần tui để biếu bà.

     Chỉ nói chơi vậy, mà sau lần đó, cả Nam và Thanh Du về thưa với ông bà Khang và kể câu chuyện về bà già nghèo khổ bán bánh tráng. Thấy con có lòng nhân hậu biết thương người, ông bà Khang mừng lắm, hằng ngày ông bà cho phép Nam và Du thực hiện điều chúng mong ước. Từ đó, mỗi lần đi học ngang qua, bà già có bánh mì ăn, không chỉ bánh mì không mà lâu lâu còn có thịt xíu do chị em Nam giành phần biếu bà.

  Mỗi lần như thế, bà già hom hem mỉm cười, mặt rạng rỡ, nheo cặp mắt hiền từ nói với bọn Nam:

- Tụi bây hoang mà cũng thiệt ngoan đó!


 Trần Thị Nhật Hưng

   

   

 


***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 5265)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8036)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6162)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5635)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4272)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9207)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5740)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7055)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5752)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 6376)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]