Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Evans-Wentz: Ẩn Sĩ Ôm Non Cao

15/05/202111:49(Xem: 5536)
Evans-Wentz: Ẩn Sĩ Ôm Non Cao

Evans-Wentz: Ẩn Sĩ Ôm Non Cao (Người Mang “Tử Thư Tây Tạng” Qua Phương Tây)

David Guy/Lê Diễm Chi Huệ Việt dịch

An-SI-Om-Non-Cao-003

Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”

Như các vị tiên phong đem Phật giáo vào Phương Tây, Evans-Wentz không cho mình là Phật tử mà chỉ tình cờ tìm thấy những tài liệu về Phật giáo và đem phổ biến. Với tính cách ngây thơ chân thành, tài hùng biện hoa mỹ, tầm nhìn sâu sắc và giọng điệu thiên sai, ngày nay ông được coi là một lực đẩy cho trào lưu New Age.

Dù vậy, ông trở thành một học giả được nể trọng. Ông mang chút văn vẻ của người Anh trong các bài viết của mình dưới cái tên QY Evans-Wentz, Thạc sĩ, Tiến sĩ Văn Chương, Đại học Jesus, Oxford. Evans-Wentz dành tương đối ít thời gian ở Oxford mà thực sự trưởng thành trước thời điểm chuyển giao thế kỷ tại thành phố Trenton, tiểu bang New Jersey.  Người đàn ông, sau này đề cao “lý tưởng ẩn cư”, từng là một thanh niên mơ mộng, cô đơn, thơ thẩn những chiều buồn bên dòng sông Delaware thơ mộng, đôi khi không một mảnh vải che thân. Một buổi chiều nọ, chàng cảm giác ngất ngây và bị ám ảnh bởi niềm tin không phải lần đầu tiên có mặt trên cõi đời này, ngay lúc đó, những hình ảnh quá khứ và tương lai lúc ẩn lúc hiện trong tâm trí. Ngay đêm đó, chàng nhận ra rằng cuộc đời chàng sẽ là một lữ khách phiêu lưu các vùng đất lạ, vượt đại dương, xuyên núi rừng, băng sa mạc đến tận cùng trái đất để khám phá những điều chưa biết.

Sau đó, Evans-Wentz  trở thành kẻ hành hương, lang thang từ Ai Cập, Ấn Độ, Xích Kim, Trung Quốc và Nhật Bản. Ông đi về giữa hai cuộc chiến tranh lúc soạn dịch cuốn Tử Thư Tây Tạng
An-SI-Om-Non-Cao-004


Suốt đời, ông viết nhật ký và những ghi chú đó được dùng làm tài liệu cho cuốn tiểu sử mang tên Kẻ Hành Hương Về Cõi Sáng được xuất bản năm 1982.  Nhiều trải nghiệm bản thân được đưa vào sách, đặc biệt trong phần mở đầu. Nhưng vẫn còn nhiều điều bí ẩn về người đàn ông đặc biệt đeo biểu tượng trái tim thiêng liêng trên tay áo, nhưng những phần khác ông vẫn giấu kín

Evans-Wentz có hai anh trai và hai chị gái nhưng lại luôn cô độc. Cha ông là một thương gia gốc Đức, nghiện rượu. Mẹ ông, người Ái Nhĩ Lan, là người tạo cảm hứng cho ông quan tâm nghiên cứu học thuật (Cuốn sách đầu tay của ông được viết tại Oxford mang tựa đề Niềm Tin Cổ Tích Trong Các Nước Celtic (Lãnh thổ hiện đại ở Tây Bắc Châu Âu).

Thuở nhỏ ông theo đạo Tin Lành. Lớn lên gia đình ông bắt đầu có hướng suy nghĩ độc lập về tâm linh. Ông có một mối quan tâm đặc biệt đến những điều huyền bí và rất hứng thú với tư tưởng của Bà Blavatsky, người sáng lập Hội Thông Thiên Học. Chính vì Bà Blavatsky tuyên bố đã được truyền cảm hứng từ các Lạt ma Tây Tạng nên ông bắt đầu quan tâm đến nền văn hóa Himalaya xa xôi đó. Thật vậy, phần lớn nghiên cứu của ông tập trung vào các nhà Thông Thiên Học. Ông đồng cảm với họ về tư tưởng siêu nhiên và chân lý tối cao.  Evans-Wentz viết trong một phần giới thiệu: “Dưới lòng Đất Mẹ, trong sự rung chuyển sáng ngời đầy sinh lực, dòng chảy của sự sống bất diệt mãi luân lưu.”  Ông nhìn thấy chân lý trong các tôn giáo nhưng lại bất đồng với Cơ Đốc Giáo, điều mà ông tự nhận mình nhỏ nhen. Luân hồi là đề mục trong các bài viết của ông. Ông cho rằng những kẻ ngộ đạo Thiên Chúa Giáo đã từng tin vào tái sanh nhưng không hiểu sao đức tin chính thống lại chối bỏ học thuyết này.

Evans-Wents xem nhẹ chủ nghĩa tư bản. Ý tưởng về một đời sống khổ hạnh luôn lôi cuốn ông, đặc biệt là sau khi ông viếng thăm Phương Đông và ông không thích lối sống tư bản.  Tuy vậy, ông theo cha mình bước vào lĩnh vực bất động sản và thành công từ việc buôn bán nhà đất.

Ông tiếp tục sống với nghề buôn bán bất động sản bởi nó mang đến nhiều lợi lạc, và không để tâm đeo đuổi việc học cho đến tuổi ngoài 20.  Ông theo cha mình đến San Diego, một phần vì ông thích vùng Loma, trụ sở chính ở Mỹ của Hội Thông Thiên Học. Năm 24 tuổi ông ghi danh học tại Stanford theo diện đặc biệt. Năm 1907 ông học tại Jesus College, Ofxord và hoàn tất cả hai chương trình cử nhân và cao học tại Stanford vào lúc 29 tuổi.  Lúc ở Oxford, ông theo học các môn liên quan đến “tín ngưỡng thần linh” rồi lang thang xứ Wales, Scotland, Ireland, Cornwall, Britanny và đảo Man để thu thập các mẫu chuyện về các sinh vật thần thoại, tiên nữ và yêu tinh.

Năm 1916, Evans-Wents thu nhập $1600 lợi tức từ các nguồn đầu tư mỗi tháng, một số tiền khá lớn vào thời đó.  Ông qua Ái Nhĩ Lan thăm hai nhà thơ George William Russels và William Butlr Yeats. Cả hai đều quan tâm đến các bài viết của ông và lĩnh vực Thông Thiên Học. Sau đó ông chu du nhiều hơn, và điểm đầu tiên là Ai Cập, nơi ông ở đến 29 tháng. Giáo sư Roger Corless, một học giả hàng đầu về Phật giáo tại đại học Duke đoán rằng có thể sự tìm hiểu của Evans về bản dịch cuốn Tử Thư Ai Cập của E. Wallace Budge mà Evans-Wents lấy ý tưởng để đặt tựa tương tự, không mấy chính xác, là Tử Thư Tây Tạng (Tựa đề đúng nghĩa hơn là Cẩm Nang Giải Thóat Qua Nhận Biết Thân Trung Ấm)

Từ Ai Cập, ông chuyển đến Ceylon và sau đó đến Ấn Độ, nơi ông hòa nhập với cộng đồng Thông Thiên Học nổi tiếng ở đó. Đã từng là một nhà huyền học, ông nghiên cứu nhiều đức tin tôn giáo khác nhau, nhưng không là tín đồ của tôn giáo nào. Giờ đây, ông đi lang thang khắp chân núi Hy Mã Lạp Sơn, vùng đất đã truyền cảm hứng cho Bà Blavatsky, và ông bắt đầu gặp gỡ những vị thầy tâm linh mà ông sẽ viết về họ trong sách của mình.

Tại Darjeeling, Evans-Wentz đã gặp hiệu trưởng của một trường nam sinh ở Gangtok, Sikkim, tên là DawaSamdup. Dawa-Samdup từng làm thông dịch viên cho chính phủ Anh ở Sikkim và đang làm từ điển Tạng-Anh. Nhưng rõ ràng ông ta không để tâm làm hiệu trưởng. Theo tiểu sử của Winkler, ông bị “nguyền rủa bởi đồ uống của quỷ”, và thường xuyên đi lang thang khỏi trường học trong nhiều ngày, bỏ bê học sinh của mình trong khi ông “suy ngẫm về các vấn đề siêu hình”.
An-SI-Om-Non-Cao-005

Hình Kazi Dawa-Samdup và Evans-Wents tại Sikkim năm 1920. Hình Evans-Wents lúc trẻ tại đại học Stanford.

Kawa-Samdup chuyên tâm vào công việc phiên dịch. Trong mỗi chuyến du hành, Evans-Wentz đã mua rất nhiều tài liệu về đề tài tâm linh. Samdup thì sở hữu tài liệu về đề tài khác. Theo ông Rick Fields, tác giả cuốn “How the Swans Came to the Lake: A Narrative History of Buddhism in America”,  cả hai Evans-Wentz và Kawa Samdup cùng nhau làm việc từ mờ sáng, Kawi Kawa-Samdup thực hiện công tác phiên dịch và Evans-Wentz đóng vai trò “tự điển sống” hỗ trợ Samdup.

Quá trình học tập tại Oxford khiến Evans-Wentz khó tránh khỏi việc nhìn Phật giáo Tây Tạng dưới lăng kính tôn giáo tỉ giao và tín ngưỡng dân gian, và bản dịch của ông không tránh khỏi sơ sót về ngôn pháp, ví dụ hai chữ "ye 's" và "thou 's " bị ảnh hưởng cách diễn giải trong Kinh thánh, và Evans-Wentz không phân biệt rõ ràng các thuật ngữ Ấn Độ Giáo và Phật Giáo.

Dù vậy, Rick Fields cũng thừa nhận ảnh hưởng lớn nhất của Tử Thư Tây Tạng là giới thiệu Phật Giáo Tây Tạng đến với Phương Tây. Ba năm trước trước khi xuất bản, học giả J.B. Pratt cho rằng "Phật giáo Tây Tạng bị pha trộn nhiều yếu tố phi Phật giáo đến mức tôi ngần ngại gọi đó là Phật giáo".  Tuy nhiên, Evans-Wentz có cách nhìn khác, ông cho rằng Phật giáo Tây Tạng không bị tha hoá mà là một hình thức Phật giáo tinh vi và tiến bộ, không phải không đồng ý với Phật giáo kinh điển hay bí truyền mà lại được ví như tinh hoa của Phật giáo đỉnh cao.  Fields gọi nhận xét sâu sắc này là thành tựu lớn nhất của Evans-Wents.

Năm 1922, ba năm sau khi hai người hợp tác làm việc, Kazi Dawa-Samdup qua đời. Evans-Ewents tu luyện nghiêm túc hơn và để đạt được trải nghiệm sâu sắc khi hành thiền yoga, ông sống khổ hạnh dưới một túp lều cỏ. Ông nhận mình là đệ tử của Kazi Dawa-Samdup mặc dù không có bằng chứng nào cho thấy người dân Tây Tạng coi Kazi Dawa-Samdup là một vị lãnh đạo tinh thần.

Evans-Wents thích tu tập tại vùng thôn quê Ấn Độ, nơi ông gọi là không gian linh thiêng, khái niệm này được ông tiếp tục phát triển suốt nhiều năm.  Ông chia sẻ trong một hội thảo Thông Thiên Học năm 1942 rằng: "Tất cả địa điểm linh thiêng, tùy theo mức độ ít nhiều, đã biến thành thánh địa bởi sức mạnh huyền bí để gia tăng bản chất tâm linh trong các nguyên tử vật lý. Nó là quả ngọt của sự tu tập, là bằng chứng về sự chinh phục và biến chuyển tối thượng của tư tưởng..."

Giai đoạn Kazi Dawa-Samdup qua đời cho đến khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ là thời kỳ hoạt động mạnh mẽ nhất của Evans-Wentz.  Ông đi về giữa ba nơi quan trọng của đời ông: Ấn Độ, Anh và California.  Ông tiếp tục thu thập và hiệu đính tài liệu mà thầy ông đã dịch, đó là cuốn Tử Thư Tây Tạng với Đại Sư Yogi Milarepas vào năm 1928. Cuốn này phát họa ý tưởng mà Evans-Wentz gọi là "nghệ thuật chết", sau đó ông đổi thành "Nghệ Thuật Làm Chủ Cuộc Sống"

Năm 1935, ông tiếp bước Đại sư Yogi Milarepa và cho ra đời cuốn Thiền Yoga và Mật Giáo Tây Tạng, tin rằng “chỉ khi Phương Tây hiểu Phương Đông thì nền văn hóa xứng đáng với tên gọi văn minh mới thật sự phát triển.” Tác phẩm của ông vào thời điểm đó mang giọng điệu chống lại tư tưởng Phương Tây. Điều này không chỉ thể hiện trong các bài viết mà còn qua lối sống của chính ông.

Và rồi cuộc đời của Evans-Wentz rẽ sang bước ngoặc kỳ quái: Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ông- kẻ lãng du thế giới, một học giả nổi tiếng ẩn dật trong căn phòng nhỏ tại khách sạn Keystone thành phố San Diego. Ông sống tại nơi đó hai mươi ba năm cuối đời.  Evans-Wentz chọn khách sạn Keystone vì nơi đây gần một nhà hàng chay duy nhất trong thành phố tên là House of Nutrition, và gần thư viện cộng đồng, nơi ông mượn lại sách của mình vì đã cho đi hết các ấn bản của chính ông.
An-SI-Om-Non-Cao-006

Khách sạn Keystones tại San Diego, nơi Evans-Wents từng ẩn dật

Ông cũng khám phá một chốn linh thiêng cho riêng mình trên ngọn núi Cuchama, cách biên giới Mexico vài dặm. Từng là nhà đầu tư bất động sản, lúc nào ông cũng mua bán. Ông sở hữu một căn nhà nhỏ trên núi Cuchama và thỉnh thoảng đến đó để tu tập giáo pháp Phật Đà.

Trong một buổi giới thiệu sách của mình, ông đề cao “lý tưởng ẩn cư”, xa lìa tiện nghi, nếm trãi sự khắc nghiệt của dãy Hy Mã Lạp Sơn quanh năm tuyết phủ, khoác trên mình bộ quần áo vải thô, lót lòng với nắm lúa mạch. Evans-Wentz thực sự là một ẩn sĩ, ông tiếp tục sống khổ hạnh như vậy tại San Diego cho đến cuối đời.

An-SI-Om-Non-Cao-007

Evans-Ewentz tìm thấy và mua ngọn núi linh thiêng Cuchama, nằm giữa biên giới California và Mexica.

Ông thố lộ trong trang nhật ký sau cùng: "Tôi bị ám ảnh nhận ra sự giả tạo của sức mạnh con người. Như Ngài Milarepa đã dạy: lâu đài cũng sẽ thành phế tích, gặp gỡ trong chia ly, hội tụ trong phân tán, sống trong cõi chết.  Liệu có tốt hơn nếu tiếp tục cuộc sống lạc lõng giữa phố thị California hay trở về Hy Mã Lạp Sơn hoang dã là điều khó trả lời một cách chính xác. Cuối cùng Evans-Wentz đã có câu trả lời. Ông đã tìm thấy ngọn núi thiêng và con đường Đạo mà ông mãi tìm kiếm trong cuộc hành trình tâm linh của mình. Không có lý do gì để ông lang thang nữa!

Lê Diễm Chi Huệ Việt dịch

Nguồn: https://tricycle.org/magazine/hermit-who-owned-his-mountain/



***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2013(Xem: 8071)
Ngày 20.09.2013. Ngài Đạt Lai Lạt Ma đến thăm Chùa Viên Giác, chuyến ghé thăm chớp nhoáng vài giờ trên đường Ngài ra phi trường để bay về trú xứ. Tình cờ vào trang nhà Quảng Đức đọc được bài phóng sự sống động „Nụ cười bất diệt“ của chị Hoa Lan viết. Bài nào của chị ấy mà chả sôi nổi đầy hình ảnh, đọc như xem phim. Chị ấy viết về những tâm đắc qua buổi pháp thoại và cả những lo âu cho những người bạn đạo của chị khi không có vé vào, đến khi có được vé rồi thì phải chụp hình ngay tấm vé có tên mình, làm như sợ để lâu chữ sẽ bay đi hết.
07/11/2013(Xem: 11752)
Sống làm sao cho cuộc đời trở nên đáng sống, có ý nghĩa, có lý tưởng, có thương yêu hiểu biết thì đó là Ðời Ðạo. Còn như chạy theo Ðạo mà quan niệm hẹp hòi, bảo thủ cố chấp, không khoan dung độ lượng thì đó là Ðạo Ðời. Có người sống cả đời chỉ để làm một việc lợi ích thôi, như Lão tử, đến và đi không tung tích, để lại độc nhất một quyển Ðạo Ðức Kinh giá trị vô cùng, há không phải là một đại thiền sư hay sao?
05/11/2013(Xem: 10745)
Một hôm, nhạc sĩ Dương Thụ mời tôi đến Cà phê thứ 7 của anh trò truyện một bữa cho vui. Được thôi. Tôi vẫn thỉnh thoảng đến chỗ anh để uống cà phê và nghe chuyện trò mà. Đề tài gì? Thiền và sức khỏe. Vấn đề đang rất được giói trí thức quan tâm. Căn phòng nhỏ xíu, nhưng trang nhã, ấm cúng. Một, chỗ chơi nhạc thính phòng, họp mặt bạn bè, kiểu salon thế kỷ 18 – chỉ thiếu một nữ bá tước – để chuyện trò thân mật, cách biệt với ồn ào nhộn nhịp ngoài kia.
30/10/2013(Xem: 13440)
Tạp chí nghiên cứu người tiêu dùng Journal of Consumer Research công bố một khảo sát năm 2012, kiểm chứng rằng tại sao người tiêu dùng là nam giới lại thường tránh xa chuyện ăn chay. Trong đó, khảo sát này nhấn mạnh "Thịt dường như đồng nghĩa với quyền lực và sức mạnh đàn ông".
30/10/2013(Xem: 40613)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
30/10/2013(Xem: 8864)
Một nữ doanh nhân nổi tiếng trong lĩnh vực địa ốc, nổi tiếng vì sở hữu nhiều ngôi nhà đẹp, từng có nhiều bài viết sắc sảo về kinh doanh. Thời gian gần đây chị “từ bỏ cuộc chơi” để tìm về với Phật pháp và chọn Huế là nơi chốn dừng chân của mình. Trong một thời gian ngắn từ 2010 đến nay, chị đã xây dựng ở Huế ba công trình từ thiện và nổi bật là Cát Tường Quân với kiến trúc độc đáo và thanh tịnh đang trở thành điểm đến của du khách mỗi khi dừng chân ở Huế.
29/10/2013(Xem: 13082)
Trong lá thư này, Lạt Ma Zopa Rinpoche trả lời cho một sinh viên học lâu năm với Ngài, một người đã viết thư để cảm ơn Ngài đã “cầu nguyện, dạy dỗ và che chở” trong nhiều năm qua. Người sinh viên xin được giấu tên hiện đang chăm sóc cho Mẹ đang chịu nhiều đau đớn về thể xác sau khi bị hàng loạt những cơn đột quỵ. Như là một phương pháp để đương đầu với những khó khăn khi chăm sóc, người sinh viên đã tưởng tượng như đang chăm sóc cho Ngài Zopa Rinpoche khi chăm sóc cho Mẹ cô.
26/10/2013(Xem: 64137)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
24/10/2013(Xem: 13789)
Thiền định là một phương tiện chủ yếu vô song của Phật Giáo giúp người tu tập trực tiếp đạt được Giác Ngộ. Đức Phật đã nhắc đến phép luyện tập này ngay trong bài thuyết giảng đầu tiên về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) khi Ngài nói về Sự Thật Cao Quý thứ tư và Con Đường Của Tám Điều Đúng Đắn (Bát Chánh Đạo). Tuy nhiên không phải vì thế mà tất cả những người tự nhận mình là Phật tử đều luyện tập thiền định.
23/10/2013(Xem: 10603)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm. Nếu nói về muôn loài trên thế gian, con người là sinh vật cao cấp sống bằng “tình cảm” vì có hiểu biết, suy nghĩ, nói năng, nhận thức và làm được nhiều việc đóng góp lợi ích thiết thực trong bầu vũ trụ bao la này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]