Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành Giả - Hành Trạng Và Hành Trì

27/03/202109:59(Xem: 3192)
Hành Giả - Hành Trạng Và Hành Trì
monk 2

Nếu không xem Phật giáo là một tôn giáo, những ai đến với Đạo Phật, được xem là một hành giả chọn con đường tiến đến giải thoát, bởi vì, ngoài đẳng cấp Nhân-Thiên, là hành trạng tô bồi thiện nghiệp cho quả vị phước báu, vẫn còn trôi lăn trong tam giới.

                                                  ***

Hầu hết, căn cơ đại chúng thường chỉ nương tựa vào tha lực, vì thế, van xin, cầu nguyện, bái vọng… biến Phật giáo thành một tôn giáo nhiều lễ nghi phức tạp; duy chỉ có Phật giáo Bắc tông, ảnh hưởng lễ tục Nho gia và đức tin truyền thống địa phương, dĩ nhiên vẫn tốt hơn “nhất xiển đề”, từ đó biết tạo thiện nghiệp, bố thí, phóng sanh, làm lợi ích cho xã hội; nhân tốt hữu lậu tất sanh phước hữu lậu, không thể cầu toàn giải thoát nếu không thực hiện sâu vào hoán chuyển tâm thức.

“Phước Trí nhị nghiêm” là hạnh nguyện Bồ Tát đạo. Hành thiện mà không tu huệ, đó là quả vị “Nhân Thiên”, kết quả giàu sang, sung túc vật chất, chưa thể đi đến giải thoát. Chuyên hành trì tuệ giác mà thiếu vun bồi gốc rễ phước báu, danh từ chuyên môn gọi là “càn huệ địa”, vùng đất tuệ giác khô khốc như hoa mọc trên đất nắng hạn. Có những hành giả chuyên tu miên mật, ít được cúng dường, đây là kết quả thiên về tu huệ bỏ quên hành phước.

Chúng ta đang nói về những hành giả cưu mang công hạnh Bồ Tát đạo, đang thâm nhập vào thế gian, vừa hành trì mật pháp, vừa tế độ nhân sinh.Phẩm nhập pháp giới trong kinh Hoa Nghiêm,nói về công hạnh của Thiện Tài đồng tử cầu pháp 53 vị Thánh hạnh, từ Thánh quả đến tục đế, có nghĩa từ hữu hình đến vô hình, từ tục đế đến Thánh đế đều cầu học, thâm nhập mọi lãnh vực; học đủ tất cả về sắc pháp, tâm pháp và phương pháp hành Bồ Tát đạo. Trong đó, có cả ngũ minh:Thanh minh,Công xảo minh, Y Phương Minh, Nhân Minh, Nội Minh.
Hai vị chủ đạo hướng dẫn cho Thiện Tài đồng tử là Bồ Tát Văn Thù tiêu biểu cho trí tuệ và Bồ Tát Phổ Hiền tiêu biểu cho  đại nguyện.

Pháp giới không chỉ là hiện tượng vũ trụ, còn là pháp tánh, là chân như, là bản thể tánh giác, là pháp thân thường tại.Hành giả thâm nhập pháp giới là nhập vào tánh giác, đi từ tục đế tiến đến chân đế. Kinh Kim Cang nói “Như Lai, tức vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ, cố danh Như Lai”.đó là pháp tánh.
“Phóng chi tắc cai la thế giới, thu chi tắc tế nhập vi trần” (Buông ra thì trùm khắp pháp giới, thâu lại thì nhỏ hơn vi trần), nên pháp giới là tâm của vũ trụ, đồng thới cũng là tâm của con người. Theo Kinh Hoa Nghiêm: 1. Sự vô ngại pháp giới: 2. Lý vô ngại pháp giới: 3. Lý sự vô ngại pháp giới.sự sự vô ngại pháp giới. Lý và sự là phản ánh tâm thức, tâm thức căn bản vô hinh vô tướng, do đó lý sự đều vô chướng ngại trên đạo lộ hành trì. Pháp giới là đối tượng phóng tâm của thức, Duy thức gọi là “Tam thế duy tâm, vạn pháp duy thức”

Do giả thuyết ngã pháp
Hữu chủng chủng tướng chuyển
Bỉ y thức sở biến
Thử năng biến duy tam

(Do giả thiết ra ngã và pháp, mà có các hiện tượng sai khác. Tất cả hiện tượng  đó đều do thức chuyển biến phát sinh. Thức năng biến nầy có ba loại: thức Dị thục, thức Tư lương, và thức Phân biệt các đối tượng

Ý thức thường hiện khởi
Trừ sanh vô tưởng thiên
Cập vô tâm nhị định
Thùy miên dữ muộn tuyệt

(Ý thức thường hiện khởi, chỉ trừ khi sinh lên cõi trời Vô tưởng, khi nhập vào Vô tưởng định và Diệt tận định, lúc ngủ mê, và khi bị chết giấc (năm trường hợp trên đây ý thức không hiện khởi tác dụng).

 Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt, sở phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Cố nhất thiết duy thức

 (Do các thức chuyển biến sinh khởi ra năng phân biệt và sở phân biệt; chính các pháp nầy đều không, cho nên tất cả là Duy thức.)

Vì thế Thiện Tài đồng tử đầu tiên gặp Bồ tát Văn Thù tức đầu tiên khởi sự hành trì là “căn bản trí, tức trí tuệ .Được hướng dẫn thông qua mọi thể trạng chân và tục đế, sau đó Thiện Tài đồng tử đến bái lễ đức Quán Âm, khởi phát tâm đại bi phổ quát. Đây là tâm từ căn bản của mọi hành giả cũng như chư Thánh giả. Khi hành giả kinh qua mọi cảm nghiệm trong cuộc sống, chọn một pháp hành để hướng nội”nội quang phản chiếu”; dùng trí tuệ hướng vào nội hành để lắng nghe mọi cảm thức, mọi hạt giống tham dục , mọi kiết sử, hóa giải nghiệp thức bằng sóng âm tự tánh hay còn gọi là âm thanh nội tại; khi âm lực phát triển thì mọi cảm thức, mọi chủng nghiệp dần bị bào mòn đến khi căn bản thức biến thành bạch tịnh thức, thì trí tuệ còn gọi là ánh quang minh phát sinh. Ánh sáng của tuệ giác hay âm thanh nội tại cuối cùng là một. Đạo gia gọi là “vạn thù quy nhất bản”, đây chưa phải là điểm cuối khi chúng còn là một; vấn đề đặt ra là “nhất quy hà xứ?” Còn trụ lại một là còn điểm vướng của tâm thức
Kinh Hoa Nghiêm nói đến 10 loại thân là nói đến hiện tượng và bản thể.


1. Chúng sanh thân 
2. Quốc độ thân
3. Nghiệp thân
4. Thanh Văn thân
5. Duyên Giác thân                                                                                                  
6. 6 Bồ Tát thân                                                                                                                                  
7. Như Lai thân

8. Trí thân
9. Pháp thân
10.  Hư không thân: Thế giới thường tịch quang hay Tỳ Lô Giá Na thân.

Trong tiến trình hành trì của Bồ tát đạo đạt đến giải thoát, phải kinh qua lắm trạng huống là:

Hoan hỷ địa (tâm ý hoan hỷ) 2. Ly cấu địa (xa lìa phiền não) 3. Phát quang địa (trí tuệ chói sáng) 4. Diệm tuệ địa (trí tuệ rực rỡ) 5. Cực nan thắng địa (vô cùng khó khăn mới đạt được) 6. Hiện tiền địa (chân như hiển hiện) 7. Viễn hành địa (đi xa) 8. Bất động địa (không lay động) 9. Thiện tuệ địa (trí tuệ diệu dụng) 10. Pháp vân địa (mây pháp che khắp cả muôn loài chúng sinh).

Sở dĩ Kinh Hoa Nghiêm phân tích tỉ mỉ là biểu thị trạng thái tâm từ tục đế đến chân đế. Từ tướng đi vào tánh. Vì thế Văn Thù là trí tuệ,Phổ Hiền là công hạnh. Tướng tánh viên thông, nhất đa tương dung.

                                                   ***

Hành giả vẫn sống trong đời mà không bị  đời lôi kéo, bởi thế gian pháp tức Phật pháp. Thâm nhập vào đời “nhập pháp giới” của Thiện tài đồng tử là hạnh tu tích cực, vừa độ đời, vừa chuyển hóa nghiệp thân; tiếp nhận mọi thế sự mà không nhiễm sự thế; Phải chăng, đó là pháp hạnh nội quán, luôn lắng nghe nội tại cũng như lắng nghe niềm thống khổ của cúng sanh, sau khi tiếp nhận sự giáo hóa của 53 vị giáo thọ, Thiện Tài đã đến với hạnh Quan Âm là đoạn đường hành trì quyết định của một hành giả để thoát khỏi tam đồ ác đạo, nhân quả luân hồi?

MINH MÂN
26/3/2021





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 6572)
Nhiều người hỏi tôi, Phật tử nghĩ gì về hôn nhân đồng tính? Vâng, vấn đề này tùy thuộc vào đối tượng mà bạn nói đến. Cách đây vài năm, trong cuộc phỏng vấn với hãng CBC, đức Dalai Lama đã bác bỏ quan hệ đồng tính, khiến ngạc nhiều người cải đạo sang đạo Phật ngạc nhiên. Đôi khi, họ quá dễ dãi cho rằng đạo đức Phật giáo là phù hợp với quan điểm tiến bộ tiêu biểu của họ. Khi cuộc phỏng vấn của người Gia-nã-đại được lên mạng internet, vài người bị choáng và bị rối, nhưng quan điểm của đức Dalai Lama đưa ra không làm ngạc nhiên đối với bất cứ ai lưu tâm theo dõi vấn đề này. Rốt cuộc thì lập trường của ngài vẫn trước sau như một. Tại một hội nghị cách đây 12 năm, khi các lãnh đạo đồng tính gặp đức Dalai Lama ở San Francisco để thảo luận vấn đề cấm Phật tử Tây Tạng phản đối việc đồng tính luyến ái, ngài đã nhắc đi nhắc lại quan điểm truyền thống rằng đồng tính luyến ái là “tà hạnh”
18/09/2010(Xem: 11190)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
17/09/2010(Xem: 8171)
Gốc tiếng Phạn của chữ cà-salà kasaya.Nhưng thật sự chữ kasayatrong tiếngPhạn không có nghĩa là áomà có nghĩa là bạc màu, cáu cặnhay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm(màu nhạt), trọchay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sacủa người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèonàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gìvề chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc nhữngđiều vừa nêu trên đây.
10/09/2010(Xem: 49528)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 5252)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựng là vô cùng mạnh mẽ, tại vì chỉ một giây phút tức giận là có thể phá hủy hết công đức của cả một đời người.
07/09/2010(Xem: 6461)
Chúng ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt trời, như cá khát dòng sông êm dịu. Thế nhưng, khi chúng ta đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
04/09/2010(Xem: 9610)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 5684)
Đọc xong những câu chuyện của các phụ nữ ở Hoa Kỳ và kinh nghiệm của các vị đối với đạo Phật, chúng tôi đã rất hoan hỷ và xúc động trước những nhận thức sâu xa của họ về cuộc sống, con người và môi trường chung quanh... Những lời dạy của đức Phật vừa nhiệm màu vừa thực tiễn đến làm sao! Những lời giảng dạy ấy đã chữa lành, loại bỏ những khổ đau và đem lại sự bình an, hạnh phúc đến hàng vạn con người trong nhiều thế kỷ qua. Sau đây là các câu chuyện của những phụ nữ người Hoa Kỳ từ các nguồn gốc khắp nơi trên thế giới. Những câu chuyện về hạnh phúc và sự sống trong tỉnh thức của họ qua sự tu tập và trở về với Đạo Phật. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu và chia xẻ cùng bạn đọc.
02/09/2010(Xem: 5294)
Phiêu linh bao kiếp luân hồi - Phút giây hội ngộ, đời đời khổ đau - Mịt mùng tăm tối lạc nhau- Mang mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
30/08/2010(Xem: 6889)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567