Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Lời Nói Đầu

09/03/202107:58(Xem: 3558)
01. Lời Nói Đầu
LỜI NÓI ĐẦU
 
Nguyên bản: Prologue, the Universe in a Single Atom
Tác giả: Đức Đat Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – Thích Từ Đức

 His-holiness-Dalai-Lama-2


         Tôi chưa bao giờ được rèn luyện trong khoa học. Kiến thức của tôi chính yếu có từ việc đọc những tin tức bao gồm những câu chuyện khoa học quan trọng trong những tạp chí như Newsweek hay nghe những báo cáo từ đài BBC và sau này đọc những sách giáo khoa về thiên văn học. Ba mươi năm vừa qua tôi đã có nhiều cuộc gặp gở cá nhân và thảo luận với những nhà khoa học. Trong những lần chạm trán này, tôi đã luôn luôn cố gắng để nắm bắt những mô hình và những phương pháp cơ bản của tư duy khoa học cũng như những quan hệ mật thiết của từng học thuyết hay những khám phá mới. Tuy nhiên tôi đã nghĩ một cách sâu xa về khoa học - không chỉ cho những quan hệ mật thiết của nó cho sự thấu hiểu thực tại là gì mà còn là một câu hỏi quan trọng hơn về vấn đề nó có thể ảnh hưởng đến đạo đức và những giá trị của nhân bản như thế nào. Những lãnh vực đặc thù của khoa học mà tôi đã khám phá nhiều nhất hàng năm qua như hạ nguyên tử, vũ trụ học, và sinh học, kể cả thần kinh học và tâm lý học. Dù rằng sự  rèn luyện tuệ trí của tôi là từ tư tưởng Phật học, nhưng tự nhiên, tôi đã thường tự hỏi về những điểm chung của những khái niệm Phật giáo chủ đạo và những ý tưởng khoa học quan trọng. Quyển sách này là kết quả của một quá trình dài về suy nghĩ và hành trình tuệ trí của một tăng sĩ đến từ Tây Tạng vào thế giới của những khoang bong bóng, máy gia tốc hạt, và hình ảnh cộng hưởng từ trường chức năng (Functional magnetic resonance imaging or functional MRI (fMRI)).

 

Nhiều năm sau khi tôi tị nạn ở Ấn Độ, tôi đã xem qua một bức thư mở từ những năm 1940 trình bày với những nhà tư tưởng Phật giáo của Tây Tạng. Nó được viết bởi Gendün Chöphel[1], một học giả Tây Tạng không chỉ tinh thông Phạn ngữ, mà cũng thành thạo Anh ngữ, đặc biệt trong những nhà tư tưởng của Tây Tạng thời bây giờ. Ông du hành rộng rải ở các thuộc địa của Anh quốc như Ấn Độ, Afghanistan, Nepal, và Sri Lanka trong những năm 1930. Bức thư này được viết sau khi kết thúc chuyến du hành 12 năm của ông và làm tôi hết sức kinh ngạc. Nó thông suốt trong nhiều lãnh vực mà trong ấy có thể có một cuộc đối thoại thành công giữa Đạo Phật và khoa học hiện đại. Tôi khám phá ra rằng những bình phẩm của Gendün Chöphel thường trùng hợp một cách đặc biệt với tôi. Một điều đáng tiếc là lá thư này đã không thu hút được sự chú ý mà nó đáng có, một phần gì nó chưa bao giờ được xuất bản ở Tây Tạng trước khi tôi lưu vong ở Ấn Độ vào năm 1959. Nhưng tôi cảm thấy ấm lòng vì hành trình vào thế giới khoa học của tôi đã có một vị tiền nhân trong truyền thống Tây Tạng của tôi. Hơn thế nữa Gendün Chöphel lại đến từ tỉnh nhà Amdo của tôi. Việc bắt gặp lá thư này sau nhiều năm nó được viết ra là một khoảnh khắc ấn tượng.

 

Tôi nhớ lại một cuộc trao đổi đầy băn khoăn vài năm trước đây mà tôi có với một người Mỹ có chồng là người Tây Tạng. Đã nghe về sự thích thú của tôi với khoa học và sự dấn thân năng động của tôi trong những cuộc trao đổi với những nhà khoa học, bà ta cảnh báo tôi về hiểm họa của những quan điểm khoa học đối với sự tồn tại của Đạo Phật. Bà đã nói với tôi là lịch sử đã cho thấy rằng trong thực tế khoa học là “kẻ giết” tôn giáo và khuyên tôi là thật không khôn ngoan nếu tôi theo đuổi những quan hệ thân hữu với những người đại diện cho khoa học. Bằng việc thực hiện hành trình cá nhân vào khoa học, tôi cho rằng tôi đã mạo hiểm. Sự tự tin của tôi trong việc liều lĩnh dấn thân vào khoa học là do nền tảng tin tưởng của tôi rằng trong khoa học cũng như trong Đạo Phật, việc thấu hiểu bản chất của thực tại được theo đuổi bằng những phương tiện khảo sát sinh động: nếu phân tích của khoa học chứng minh những tuyên bố nào đó của Đạo Phật là sai một cách thuyết phục, thế thì chúng ta phải chấp nhận những khám phá của khoa học và từ bỏ những quan điểm nào đó của Đạo Phật.

 

Vì tôi là người theo chủ nghĩa quốc tế chân thành, một trong những phẩm chất đã đánh động tôi nhất về những nhà khoa học là sự sốt sắng đáng ngạc nhiên của họ khi chia sẻ kiến thức với nhau mà không quan tâm đến những biên giới quốc gia. Ngay cả trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, khi thế giới chính trị bị phân cực tới một mức độ nguy hiểm, thì tôi thấy rằng những nhà khoa học từ phía Đông hay phía Tây lại sẳn sàng trao đổi với nhau trong những cung cách mà các chính trị gia thậm chí không thể tưởng tượng được. Tôi đã cảm thấy một sự thừa nhận tiềm tàng trong tâm linh này về một loài người thống nhất và sự tự do vắng mặt quyền sở hữu trong những vấn đề kiến thức.

 

Động cơ cho sự thích thú của tôi với khoa học không chỉ đơn thuần là cá nhân. Ngay cả trước khi lưu vong, rõ ràng đối với tôi và những người khác trong xứ sở mà một trong những nguyên nhân tiềm tàng cho thảm họa chính trị của Tây Tạng là nó đã không mở cửa cho sự hiện đại hóa. Ngay khi đến Ấn Độ, chúng tôi đã thành lập những trường học Tây Tạng cho trẻ em tị nạn với chương trình hiện đại, vốn lần đầu tiên bao gồm cả giáo dục khoa học. Trong lúc ấy, tôi cũng đi đến nhận ra rằng cốt lõi của việc hiện đại hóa là ở trong việc giới thiệu giáo dục hiện đại, và trung tâm của giáo dục hiện đại là phải có sự tinh thông về khoa học và kỷ thuật. Chí nguyện cá nhân của tôi với chương trình giáo dục này đã làm cho tôi thậm chí động viên những tu học viện Phật giáo giới thiệu khoa học vào trong chương trình của họ, mà xưa nay vai trò chính là giảng dạy tư tưởng Phật giáo cổ truyền.

 

Khi sự lãnh hội của tôi về khoa học đã gia tăng, dần dần trở thành rõ rệt với tôi rằng, trong chừng mực nào đó khi sự thấu hiểu về thế giới vật lý được quan tâm, thì có nhiều lãnh vực của tư tưởng Phật giáo truyền thống nơi mà những sự giải thích và lý thuyết là thô sơ khi được so sánh với những thứ đó của khoa học hiện đại. Nhưng cùng lúc, ngay cả trong những xứ sở mà khoa học phát triển cao độ nhất thì cũng rõ ràng rằng con người vẫn đang tiếp tục trải nghiệm khổ đau, đặc biệt là ở trình độ cảm xúc và tâm lý. Lợi ích lớn lao của khoa học là nó có thể đóng góp vô vàn cho việc giảm thiểu khổ đau ở trình độ vật lý, nhưng chỉ qua việc trau dồi những phẩm chất của trái tim con người và việc chuyển hóa các thái độ của chúng ta mà chúng ta mới có thể bắt đầu nói đến và vượt thắng khổ đau tinh thần của chúng ta. Nói cách khác, việc đề cao những giá trị nhân bản nền tảng là không thể thiếu được trong việc tìm kiếm hạnh phúc căn bản của chúng ta. Do thế, từ quan điểm cát tường của nhân loại, khoa học và tâm linh không phải là không liên hệ. Chúng ta cần cả khoa học và tâm linh, vì việc làm giảm thiểu khổ đau phải xảy ra cả ở trình độ vật lý và tâm lý.

 

Quyển sách này không phải là một sự cố gắng để hợp nhất khoa học và tâm linh (Phật giáo, tôi biết là một thí dụ tốt nhất) nhưng là một nổ lực để thẩm tra hai nguyên tắc nhân bản quan trọng vì mục tiêu cho sự phát triển một cung cách toàn diện và thống nhất cho việc thấu hiểu thế giới chung quanh chúng ta, thứ kia thì khảo sát một cách sâu sắc những thứ thấy và không thấy, qua việc khám phá chứng cứ được ủng hộ bởi lý trí. Tôi không đang cố gắng vượt qua một sự nghiên cứu uyên bác về những điểm tiềm năng hội tụ và khác biệt giữa Phật giáo và khoa học – tôi để việc đó cho những nhà học thuật chuyên môn. Đúng hơn, tôi tin rằng tâm linh và khoa học là khác nhau nhưng bổ sung cho nhau qua những sự tiếp cận điều tra nghiên cứu với cùng mục đích lớn hơn, của việc tìm ra sự thật. Trong việc này, có nhiều điều mà cả hai bên có thể cùng học hỏi lẫn nhau, và cùng nhau có thể cống hiến cho việc mở rộng phạm vi hiểu biết cho kiến thức và tuệ trí của nhân loại. Hơn thế nữa, qua đối thoại giữa khoa học và tâm linh, tôi hy vọng cả hai môn có thể phát triển việc phục vụ tốt hơn cho những nhu cầu và sự cát tường của nhân loại. Thêm nữa, bằng việc kể lại câu chuyện về hành trình của chính tôi, thì tôi mong ước nhấn mạnh đến hàng triệu người Phật tử trên thế giới về nhu cầu của việc chào đón khoa học một cách nghiêm túc và tiếp nhận những khám phá căn bản của khoa học trong thế giới quan của họ.

 

Sự đối thoại giữa khoa học và tâm linh đã có một lịch sử lâu dài – một cách đặc biệt với sự liên hệ đến Ki tô giáo. Trong trường hợp truyền thống của tôi, Phật giáo Tây Tạng, vì những lý do đa dạng của lịch sử, xã hội, và chính trị, việc gặp gở toàn diện với thế giới quan khoa học vẫn là một chương trình mới lạ. Quan hệ mật thiết với những gì khoa học cống hiến vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng. Bất chấp những quan điểm cá nhân khác biệt về khoa học, không có sự thấu hiểu đáng tin nào thế giới tự nhiên hay sự tồn tại của loài người chúng ta – điều tôi đang gọi trong quyển sách này là một thế giới quan – lại có thể quên đi sự thấu hiểu sâu sắc căn bản của những học thuyết như chìa khóa như thuyết tiến hóa, thuyết tương đối, và cơ học lượng tử. Có lẻ khoa học sẽ nghiên cứu cho một hẹn ước với tâm linh, một cách đặc biệt trong sự tương tác của nó với những vấn đề rộng rãi hơn của nhân loại, từ đạo đức đến xã hội, nhưng chắc chắn một số khía cạnh đặc biệt của tư tưởng Phật giáo – chẳng hạn như những thuyết vũ trụ học cổ và vật lý thô sơ – sẽ phải điều chỉnh trong ánh sáng hiểu biết của khoa học mới. Tôi hy vọng quyển sách này sẽ là một đóng góp cho dự án quan trọng sôi nổi của việc đối thoại giữa khoa học và tâm linh.

 

Vì mục tiêu của tôi là khám phá những vấn đề nổi bật sâu sắc nhất cho thế giới hiện đại của chúng ta, thế nên tôi mong ước chia sẻ nếu có thể với quần chúng rộng rãi nhất. Điều này không phải dễ dàng với những lý lẻ và tranh luận phức tạp trong cả khoa học và triết học Phật giáo. Trong sự háo hức của tôi để làm cho việc thảo luận có thể xảy ra, thỉnh thoảng tôi có thể quá đơn giản hóa các vấn đề. Tôi biết ơn hai vị hiệu đính, người thông dịch lâu năm của tôi Thupten Jinpa và đồng nghiệp của ông Jas’ Elsner, vì sự hổ trợ của họ trong việc giúp làm mạch lạc những ý tưởng của tôi trong sáng một cách tối đa trong Anh văn. Tôi cũng cảm ơn nhiều cá nhân đã hổ trợ họ và bình luận trong nhiều cấp độ của bản thảo. Trên tất cả, tôi biết ơn đến tất cả những nhà khoa học đã từng gặp gở tôi, đã vô cùng rộng rãi với thời gian của họ, và biểu lộ sự nhẫn nại vô cùng trong việc giải thích những ý tưởng phức tạp đến một người học trò đôi khi chậm lụt. Tôi xem tất cả như những vị thầy của tôi.

 

 

Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, July 19, 2017



[1] Gendun Chöpel (Wyl. Dge phel 'dun Chos') (1903-1951) là một trong những nhà tư tưởng độc đáo nhất trong lịch sử Tây Tạng. Ông là một nhà triết học, sử học, nghệ sĩ, phiên dịch, du lịch và một nhà vận động cho việc hiện đại hóa Tây Tạng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/07/2015(Xem: 7200)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
03/07/2015(Xem: 10118)
1. Bí mật của Đức Đạt Lai Lạt Ma: Đừng lo lắng về những thứ bạn không thể thay đổi và hãy có được chín giờ ngủ mỗi đêm. 2. "Mang theo thông điệp tình yêu, lòng khoan dung, và sự tha thứ." 3. "Hãy xem nhân loại là đồng nhất, sau đó không có cơ sở để giết hại lẫn nhau. Tôi yêu đời sống của tôi. Mọi người đều có quyền được sống hạnh phúc. Hầu hết các vấn đề gây ra bởi con người. Giết chóc, bắt nạt, bóc lột. Chúng ta phải tìm giải pháp dài hạn. Điều này rất khó khăn.
01/07/2015(Xem: 13439)
Hề chi một phận đời riêng Buông hơi nằm xuống mà nghiêng đất trời Thiếu ta, đời cũng vậy thôi! Ta là hạt bụi giữa đời bao la..
01/07/2015(Xem: 24178)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 19865)
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là
01/07/2015(Xem: 11436)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
29/06/2015(Xem: 9194)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8185)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12139)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 31112)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]