Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Kỷ Niệm Hiện Về ( Năm 1977 khi tôi từ Nhật Bản sang Đức xin tỵ nạn vì lý do Tôn Giáo thì bao nhiêu chương trình cũng như công việc luôn được thực hiện ở những năm sau đó. Nhất là khi đã có giấy tờ tỵ nạn chính thức rồi thì tôi lại có nhiều cơ hội để đi đây đi đó, nhằm giúp đỡ đồng bào của mình, giống như khi chúng tôi còn là những Tăng Ni sinh đã du học tại Nhật Bản từ trước năm 1975.)

21/02/202115:29(Xem: 8110)
Những Kỷ Niệm Hiện Về ( Năm 1977 khi tôi từ Nhật Bản sang Đức xin tỵ nạn vì lý do Tôn Giáo thì bao nhiêu chương trình cũng như công việc luôn được thực hiện ở những năm sau đó. Nhất là khi đã có giấy tờ tỵ nạn chính thức rồi thì tôi lại có nhiều cơ hội để đi đây đi đó, nhằm giúp đỡ đồng bào của mình, giống như khi chúng tôi còn là những Tăng Ni sinh đã du học tại Nhật Bản từ trước năm 1975.)
htnhudien (30)
Những kỷ niệm hiện về
Thích Như Điển



Năm 1977 khi tôi từ Nhật Bản sang Đức xin tỵ nạn vì lý do Tôn Giáo thì bao nhiêu chương trình cũng như công việc luôn được thực hiện ở những năm sau đó. Nhất là khi đã có giấy tờ tỵ nạn chính thức rồi thì tôi lại có nhiều cơ hội để đi đây đi đó, nhằm giúp đỡ đồng bào của mình, giống như khi chúng tôi còn là những Tăng Ni sinh đã du học tại Nhật Bản từ trước năm 1975.

Năm 1978 lần đầu tiên tôi đi Canada, hồi đó chùa và Hội Phật Giáo Quan Âm ở Montréal mới thành lập, sau khi tách từ chùa Liên Hoa ở Brossard và chùa Tam Bảo do Hòa Thượng Thích Thiện Nghị sáng lập. Quan Âm không có một vị lãnh đạo tinh thần; nên Hội đã mời Hòa Thượng Thích Minh Tâm và tôi lo cho Hội phần tinh thần, mặc dầu chúng tôi ở từ Âu Châu sang, ít thường trực tại đó; nhưng vì thưở ấy chư Tăng Ni ở ngoại quốc còn ít lắm; nên đó là giải pháp tạm thời để ổn định đời sống tinh thần cho đồng bào Phật Tử tại Montréal và các nơi khác tại Canada như Ottawa và Toronto. Đây cũng là lý do tôi có mặt thường xuyên hơn ở Canada từ năm 1978 đến năm 1990. Anh Huỳnh Phước Bàng là một trong những người quen biết nhiều cựu sinh Viên Việt Nam du học tại Canada trước năm 1975; nên mỗi lần tôi sang Canada hoằng pháp là Anh phát tâm đưa tôi đi nhiều nơi tại Montréal cũng như Ottawa giới thiệu với nhiều người thân quen tại đó. Ví dụ như Ban Nhạc của Ông Phạm Mạnh Cương, nhà sách của Anh Nguyên, chị Lê Thị Bạch Nga và cả Anh ViVi từ sau năm 1981, khi Anh ViVi Võ Hùng Kiệt đã định cư tại Montréal. Đây là cái duyên văn nghệ của tôi với Họa Sĩ.

Cuối năm 1979 lần đầu tiên tờ báo Viên Giác tại Hannover Đức Quốc được ra đời và cho đến năm nay 2020, Viên Giác đã kỷ niệm 41 năm xuất bản ở ngoại quốc, là một trong những tờ báo Đạo có tuổi thọ sống lâu nhất kể cả trong nước cũng như Hải Ngoại từ đó đến nay. Tôi với nhiệm vụ là Chủ Bút của tờ báo nầy kể từ khi sáng lập cho đến năm 2003 khi tôi trở về ngôi Phương Trượng, do vậy phải làm quen cũng như mời gọi những văn nghệ sĩ khắp nơi đóng góp bài vở và tranh bìa. Từ số 1 cho đến số 6 Viên Giác bộ cũ chúng tôi chỉ chọn những hình vẽ bình thường để làm bìa; nhưng những năm sau nầy thì Anh Chủ Bút Phù Vân chính thức mời Anh ViVi Võ Hùng Kiệt gửi cho Viên Giác tranh bìa vẽ màu. Đây là cái duyên Văn Nghệ. Sau đó thì Cô Diễm Châu tức Họa Sĩ Cát Đơn Sa, người bạn đời của Anh ViVi đã thay anh lo công việc nầy, là trực tiếp gửi những hình ảnh quê hương qua hình dáng của những người phụ nữ hay những em bé Việt Nam… để làm bìa cho tờ báo Viên Giác càng ngày càng dễ nhìn hơn, nhất là những tranh vẽ hình bìa của họa sĩ ViVi và Cát Đơn Sa đã làm cho những độc giả hài lòng không ít.

Ở Việt Nam với cương vị của một Tăng Sĩ trẻ thời trước năm 1975, tôi ít có cơ duyên hay nói đúng hơn là quy cũ Thiền Môn ít cho phép chúng tôi có cơ hội để tiếp xúc với những Văn nghệ Sĩ, Họa Sĩ v.v… Bởi vì mỗi lĩnh vực tương đối khác nhau rất nhiều; nhưng khi ra ngoại quốc thì chúng tôi bắt buộc phải đối diện với nhiều sự kiện cũng như phải tiếp xúc với nhiều tầng lớp người Việt có khuynh hướng, Tôn Giáo khác nhau v.v… nên đây là những bài học rất sống động đã giúp cho chúng tôi mang Đạo vào Đời, có nhiều ảnh hưởng trực tiếp hơn như lúc còn ở quê nhà trước năm 1975.

Mỗi lần có dịp sang hoằng pháp tại Hoa Kỳ, tôi thường hay đến thăm những vị đang viết bài cộng tác cho báo Viên Giác; mặc dầu mỗi cuối năm tôi đều có viết Card chúc Tết thăm hỏi. Thế nhưng Ông Bà mình thường hay nói: “Một mặt hơn mười gói”; nên đã có lần cách đây vài năm, khi phái đoàn của chúng tôi đến Santa Ana, Hoa Kỳ, tôi đã điện thoại và có ý đến thăm viếng gia đình hoạ sĩ ViVi - Cát Đơn Sa.

Ở một bài nào đó viết cho báo Viên Giác, Cô Diễm Châu có ý ngại khi đón chúng tôi, vì lẽ HS ViVi ở ẩn, ít tiếp khách ngoại trừ gia đình. Lúc đó thợ lại đang đào đất sửa ngoài sân nhà khá bề bộn! Tôi bảo cô an tâm không sao cả, vì Anh và Cô đã cộng tác với Viên Giác từ rất lâu mà tôi chưa có dịp đến nhà thăm, cũng như gặp lại Anh ViVi đã trên mấy mươi năm xa cách. Thế là một buổi hội ngộ đơn giản đã diễn ra sau đó. Trước khi bước vào nhà, tôi thoáng thấy một tượng người lính Việt Nam Cộng Hòa mà anh đã tạc xong và khi vào câu chuyện, Anh kể cho nghe nhiều việc về hội họa cũng như triển lãm. Trong khi Cô Diễm Châu lo trà nước, thì Anh ViVi dẫn chúng tôi đi xem những bức họa của Anh và Cát Đơn Sa treo trong nhà… Các bức tranh của anh đã được những giải thưởng cao quý ở trong nước cũng như ngoại quốc. Ai trong phái đoàn của chúng tôi cũng phải trầm trồ khen ngợi, vì Anh là một họa sĩ đại tài.

Trước khi ra về, Cô Diễm Châu còn gửi cho tôi vài ba gói quà là những đĩa CD nhạc do Cô hát với giọng Huế, thỉnh thoảng có sót đâu đó vài giọng Quảng Nam, vì Cô đã lớn lên và học tại trường Sao Mai Đà Nẵng. Cô cũng là bạn học của Anh Ngô Ngọc Diệp đang ở tại Hannover và Anh Diệp cũng là người Đệ Tử tại gia đầu tiên của tôi từ năm 1978. Khi về lại Đức, nghe những băng nhạc của Cô Diễm Châu gửi, phải công nhận Cô là một nữ ca sĩ đa tài. Vừa là họa sĩ, vừa ca sĩ và cả văn sĩ nữa. Quả thật người xưa nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn” là vậy. Anh ViVi đang có người vợ hiền đa tài năng đang ở cạnh mình, chắc rằng Anh phải hạnh phúc lắm. Bởi vì tục ngữ Nga cũng có câu rằng: “Hạnh phúc là những gì người ta đang có, chứ không phải những gì người ta đi tìm”.

Lâu nay tôi tự hỏi tại sao Anh Võ Hùng Kiệt lại dùng bút danh là ViVi thì trên Wikipedia đã có lời giải thích rõ ràng. Đó là hai tiếng gọi thân thương Việt Nam và Vĩnh Long; nơi sinh quán của Anh mà Anh đã ghép vào. Anh sinh trước tôi 4 năm và năm nay 2020 ai cũng đã trên 70 tuổi hết rồi. Trước năm 1975 Anh ViVi đã là một họa sĩ nổi danh một thời qua những hình ảnh tem thư của Việt Nam Cộng Hòa, của báo Tuổi Hoa… và sau năm 1981 tại ngoại quốc, Anh đã là một họa sĩ, một điêu khắc gia nổi tiếng, mà Viên Giác tại Đức cũng đã được Anh và Cát Đơn Sa đóng góp, cộng tác không ngừng; nhất là qua những họa phẩm vừa rồi đã đăng trên Tập San Văn Hóa Phật Giáo xuất bản lần thứ hai tại Đức để kỷ niệm 70 năm sinh nhật của tôi (2019) và những phụ bản của Cát Đơn Sa trong những bìa báo Viên Giác cũng như trong quyển tiểu thuyết “Mây Oan Cửa Thiền” của tôi đang tái bản kỳ nầy. Ân nầy và những nghĩa cử tốt đẹp kia của Anh ViVi cũng như của Cô Diễm Châu, tôi biết nói gì đây ngoài hai tiếng cảm ơn như thường tình mà người ta vẫn thường dùng như thế. Nhưng ở tôi thì xin mượn câu nầy của Đức Phật để tặng cho Anh ViVi và Cô Diễm Châu nhân việc xuất bản sách của Anh lần nầy. Đó là: “không có sự phân biệt Tôn Giáo và giai cấp, khi trong máu người cùng đỏ và nước mắt người cùng mặn”. Tôi biết rằng Tôn Giáo Anh và tôi đang phụng thờ khác nhau; nhưng không vì thế mà chúng ta đã không thể gần nhau qua văn chương chữ nghĩa cũng như Hội Họa. Bởi vì nước mắt của ai trong chúng ta cũng mặn và máu của ai cũng đỏ, dầu người đó thuộc chủng loại hay Tôn Giáo nào.

Bây giờ sau hơn 40 năm ở ngoại quốc nhìn lại (1979-2020) hay gần 50 năm xa xứ (1972-2020) những người cùng trang lứa, ai cũng đã già và nhiều người đã mất... Vì thời gian và năm tháng trôi qua, khiến cho người ta dễ quên đi dĩ vãng; nhưng những hồi ký, ức ký, nhật ký v.v… sẽ giúp người ta nhớ về dĩ vãng một cách dễ dàng hơn… và hôm nay tôi viết bài nầy riêng tặng Anh ViVi, Cô Diễm Châu cũng không ngòai mục đích ấy. Rồi đây mỗi người trong chúng ta cũng sẽ có “Một cõi để đi về”; nhưng những gì Anh và Cô đã đóng góp cho Viên Giác ở Đức cũng như cho cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn cộng sản ở ngoại quốc không nhỏ. Hình ảnh đó, âm thanh nầy sẽ ghi đậm nét về sau là: Ở một thời điểm như vậy đã có những họa sĩ, điêu khắc gia, văn sĩ, ca sĩ như Anh và Cô đã mang lại cho Đời và cho Đạo nhiều chất liệu dưỡng sinh để sống trên cuộc đời nầy càng ngày càng có nhiều ý nghĩa hơn.


Viết xong vào ngày 25 tháng 10 năm 2020 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc.

HT. Thích Như Điển






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4711)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5013)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4510)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3741)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7554)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4745)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6173)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12134)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5350)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]