Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới thiệu quyển sách”Trái đất và sự sống”của Đạo Hữu Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ

21/02/202115:20(Xem: 10108)
Giới thiệu quyển sách”Trái đất và sự sống”của Đạo Hữu Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ

Giới thiệu quyển sách
”Trái đất và sự sống”
của Đạo Hữu Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ

Thích Như Điển

 

Tôi được Tác Giả ký tặng cho quyển sách nầy vào ngày 2 tháng 9 năm 2019, gửi đi từ miền Santee thuộc Tiểu Bang California, Hoa Kỳ và độ chừng 3 tuần lễ sau thì ở Đức tôi đã nhận được. Lần đầu khi nhận sách, đọc chỉ được vài ba chục trang lại ngưng, vì có những việc khác phải làm và hôm nay ngày 21 tháng 1 năm 2020 nhằm ngày 27 tháng chạp năm Kỷ Hợi tôi đã đọc xong quyển sách dày 300 trang nầy của Tác Giả đã gửi tặng. Xin niệm ân Tác Giả Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ về việc nầy.

Người khác tặng sách cho mình, mà không đọc; chứng tỏ rằng mình lười; hoặc giả không quý sách vở. Để thể hiện việc nầy hằng ngày tôi vẫn đọc Kinh, sách, báo chí v.v… có khi đọc một ngày 200 trang Đại Tạng Kinh bằng chữ Việt. Có những quyển sách 120 trang tôi chỉ đọc trong vài giờ và cũng có nhiều quyển Kinh, sách đọc hoài nhưng chẳng hết, vì nhiều lý do khác nhau. Dầu cho bận rộn đến đâu, nếu ai đó nhờ tôi viết lời giới thiệu thì điều quan trọng là phải đọc hết sách ấy rồi mới viết; chứ không vì bận rộn và chỉ xem qua tựa đề hay mục lục của sách mà vội viết lời giới thiệu liền. Sách nầy do Tác Giả tự xuất bản năm 2019 và nay muốn tái bản tại Việt Nam; nên tôi xin có vài lời trang trọng để giới thiệu về tác phẩm nầy.

Thật ra tiêu đề nầy không phải là mới; nhưng Tác Giả đã đi sâu vào bốn vấn nạn muôn đời của nhân loại là: Con người từ đâu sanh ra? Con người từ đâu đến? Sanh ra để làm gì? Và Chết, sẽ đi về đâu? Tác Giả đã cố công diễn giải bằng nhiều cách khác nhau qua khoa học thực nghiệm, qua kinh điển, qua lời Phật dạy trong các Kinh văn như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, truyện cổ Phật Giáo v.v… để chứng minh là con người không phải do một đấng tạo hóa nào sinh ra cả, mà là do những Ụ tế bào tác thành chúng sanh từ loài nhỏ nhất cho đến loài lớn nhất. Từ những chúng sanh ở ba đường ác và những chúng sanh ở các cõi thiện lương; nhưng điều quan trọng là do A Lợi Gia Thức gá vào chúng sanh đó. Từ đó một con người, con vật, một chư thiên mới hình thành. Nếu chỉ có tinh cha huyết mẹ không, thì không thể thành một chúng sanh hữu tình được. Theo trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật dạy rằng: Chúng sanh nào tình nhiều tưởng ít, khi thác sanh, thần thức sẽ dễ bị rơi vào cõi thấp hơn cõi người. Nếu chúng sanh nào có thức nhiều tình ít thì khi thác sanh, chúng sanh ấy sẽ dễ sanh về cõi chư Thiên và nếu chúng sanh nào vừa tình vừa thức ngang nhau thì khi thác sanh sẽ trở lại làm người.

Nhưng con ngươi từ đâu sanh ra hay từ đâu tới? là một câu hỏi quá lớn mà lâu nay các nhà Tôn Giáo Học, các khoa học gia, các học giả cố gắng giải thích; tựu trung chưa lột tả hết được những lời luận giải như của Tác Giả Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ ở trong sách nầy. Do vậy Quý Vị cần nên đọc kỹ và đọc nhiều lần mới thẩm thấu hết được ý nghĩa thâm sâu về thai tạng giới của Phật Giáo về tư tưởng tam thiên đại thiên thế giới nầy mà theo Tác Giả, Nasa của Hoa Kỳ cho đến năm 2019 vừa qua các Khoa Học Gia đã tìm ra được 1.300 thế giới lớn nhỏ khác nhau ở ngoài quả địa cầu mà chúng ta đang sinh sống . Đó là một minh chứng cho thấy rằng: Đức Phật sau khi chứng ngộ đã dùng ba minh(Thiên nhãn minh, lậu tận minh và túc mệnh minh)để quan sát thế giới; nên mới nói ra thuyết trùng trùng duyên khởi như vậy. Sau nầy nhà Bác Học Albert Einstein, người Đức gốc Do Thái ở vào cuối thế kỷ thứ 20, Ông đã được thế giới 7 tỷ người vinh danh là cha đẻ của thuyết tương đối và Ông Einstein cũng đã phát biểu rằng: Phật Giáo không cần thẩm định lại giá trị khoa học của mình nữa, vì tất cả những gì Đức Phật dạy, đều vượt lên khỏi sự chứng minh của khoa học rồi. Hay nhà Bác Học Steven Hawking người Anh, chứng minh về thời gian không có bắt đầu và không có cái cuối cùng. Như vậy đâu có khác gì lời Phật dạy là mấy, cách đây hơn 2.600 năm về trước?

Trong sách, Ông cũng đã chứng minh là theo tài liệu của www.Sinhhoc101112.com.VN thì loài người đã xuất hiện vào thời gian cách đây 1,8-65 triệu năm một cách tổng thể gồm ba giống người: Homo Habilis, Homo Erectus và Homo Sapien. Hai giống người trước không còn tồn tại nữa. Chỉ còn giống Homo Sapien thì còn tồn tại khá đông và từ giống nầy nam nữ loài người Homo Sapien kết hôn với nhau để sinh con bằng thai cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên theo Phật Giáo, nhất là trong Luận A Tỳ Đàm về việc thành lập thế giới thì Đức Phật dạy rằng: loài người từ cõi trời Quang Âm Thiên đến trái đất nầy từ trong vô lượng kiếp, mà cõi nầy thuộc cõi trời thứ 3 thuộc cõi Thiền thứ hai của Sắc Giới. Các vị ở đây có thân hình toàn là ánh sáng và sống trong trạng thái hỷ lạc , đã giáng thần xuống cõi Ta Bà để làm người. Tuy nhiên Tác Giả còn chứng minh thêm về những chúng sanh khác từ các cõi Dục, Sắc và Vô Sắc cũng như các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng tái sanh vào cõi người; nên mới có hình người mà tâm thú và cũng có những người có thân người mà tâm Bồ Tát, tâm Phật v.v….

Đây là một đề tài vô cùng tận, không nói hết bằng lời hay không đọc hết bằng kinh sách, mà mỗi người nên dụng công theo pháp hành như Thiền Định, niệm Phật, trì chú v.v… thì chúng ta mới thẩm thấu hết được những thế giới hải mà Đức Phật đã dạy cũng như Tác Giả Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ mong muốn mang đến những thành quả nhất định như thế cho chúng ta.

Vậy bất kể là Tăng, Ni hay tín đồ Phật Giáo và ngay cả những Tín Đồ của các Tôn Giáo khác đi nữa cũng như các khoa học gia, nhà tâm lý, Bác học, Bác sĩ, sinh viên v.v… ai ai cũng có thể tìm đến tác phẩm nầy để đọc và nghiên cứu sưu tầm. Thật là lợi ích vô cùng. Do vậy tôi xin tán thán Tác Giả đã dày công nghiên cứu qua cái nhìn Phật Học và Khoa Học của mình cũng như mong độc giả hãy cố tìm đến quyển sách giá trị nầy để xem và để hiểu đúng với lời Phật dạy vậy.

Viết xong vào lúc 17 giờ ngày 21 tháng 1 năm 2020 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc.











Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5559)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5473)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6886)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4270)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9085)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5426)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5050)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5641)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6143)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5160)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]