Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trung Quốc Tiếp tục Xiết chặt vòng vây Tây Tạng

20/02/202109:08(Xem: 5091)
Trung Quốc Tiếp tục Xiết chặt vòng vây Tây Tạng

Trung Quốc Tiếp tục Xiết chặt vòng vây Tây Tạng,

Nỗ lực Phủ nhận Vai trò Lãnh đạo Tôn giáo của Đức Đạt Lai Lạt Ma Đối với người Tây Tạng

 (China continues to tighten its grip in Tibet, tries to eradicate Dalai Lama from Tibetans' religious lives)

 Tin PG Tay Tang

Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao.

 

Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ.

 

Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma, người mà chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc coi Ngài là người chăn dắt một “evil clique” (bè lũ tà ác), và tìm cách ly khai Tây Tạng khỏi Trung Quốc. Năm 1959, ngài đến tỵ nạn và thành lập chính phủ lưu vong tại Dharamsala, miền bắc Ấn Độ. Từ đó, ngài đã ủng hộ triệt để cho chính sách bất bạo động, và Đức Ban Thiền Lạt Ma (班禪喇嘛,  པན་ཆེན་བླ་མ་, Lobsang Trinley Lhundrup Choekyi Gyaltsen, 1938-1989) thứ 10  ở lại Tây Tạng.

 

Vào tháng 9 năm 1954, Đức Đạt Lai Lạt Ma và Đức Đức Ban Thiền Lạt Ma đã tới Bắc Kinh tham dự phiên họp đầu tiên của Đại hội toàn quốc lần đầu tiên, gặp Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo khác. Đức Ban Thiền Lạt Ma đã sớm được bầu làm Ủy viên Thường vụ của Quốc hội và tháng 12 năm 1954 Ngài trở thành Phó Chủ tịch Hội nghị Cố vấn Chính trị Nhân dân Trung Hoa. Năm 1956, Đức Đức Ban Thiền Lạt Ma đã đi đến Ấn Độ trong một cuộc hành hương cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma trốn sang Ấn Độ năm 1959, Đức Đức Ban Thiền Lạt Ma công khai ủng hộ chính phủ Trung Quốc, và người Trung Quốc đã đưa ông tới Lhasa và Ngài làm Chủ tịch Ủy ban Trù bị cho Vùng tự trị Tây Tạng.

 

Đức Ban Thiền Lạt Ma đã nhiều lần lên tiếng chống lại sự cai trị hà khắc của chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vào tháng 5 năm 1962, Ngài (khi ấy là chủ tịch Ủy ban trù bị của Khu tự trị Tây Tạng) đã gửi cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai một bản báo cáo mật miêu tả chi tiết về nỗi thống khổ của nhân dân Tây Tạng khi phải đối mặt với nạn đói, bản báo cáo này còn được gọi là Đơn thỉnh cầu 70.000 ký tự: "Ở nhiều vùng của Tây Tạng, người dân đã chết đói ... Ở một số nơi, cả gia đình đã thiệt mạng và tỷ lệ tử vong là rất cao. Đây là điều rất bất thường, khủng khiếp và nghiêm trọng ... Trước đây Tây Tạng sống trong một chế độ phong kiến ​​man rợ đen tối nhưng không bao giờ thiếu lương thực như vậy, đặc biệt là từ khi Phật giáo được truyền bá vào đây .... Ở Tây Tạng từ năm 1959 đến năm 1961, trong vòng hai năm hầu hết các hoạt động chăn nuôi và trồng trọt đều phải ngừng lại. Những người du mục không có ngũ cốc để ăn và nông dân không có thịt, bơ hoặc muối", báo cáo tiếp tục. Theo ý kiến ​​của Đức Ban Thiền Lạt Ma thì những cái chết này là hậu quả của các chính sách sai lầm do nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc ban hành, không phải do bất kỳ thảm họa thiên nhiên nào. Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 cũng mô tả sự kinh hoàng của nạn đói mà người dân Tây Tạng phải chịu đựng: "Chưa bao giờ có một sự kiện như vậy trong lịch sử của Tây Tạng. Mọi người thậm chí không thể tưởng tượng được cảnh đói khủng khiếp như vậy ngay cả trong những cơn ác mộng của họ...".

 

Theo The Economist, tôn giáo Tây Tạng của những người theo đạo Hồi ở Tân Cương đang trải qua bị “sinicisation” (Hán hóa) dưới sự cai trị hà khắc của của chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Tại Tây Tạng và Tân Cương, chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tấn công vào tôn giáo và truyền thống văn hóa của người dân.

 

Trong khi những người Duy Ngô Nhĩ bị đưa tập trung vào “trại cải tạo” (re-education camps),  thì những người nông dân Tây Tạng đã được tập kết đến những khu nhà hiện đại trong nội ô các thị trấn và thành phố. Hơn nữa, tiếng Tây Tạng đã được thay thế bằng tiếng Quan Thoại tương tự như ở Tân Cương.

 

Theo The Economist, nhiều người đã làm trước khi Tập Cận Bình nắm quyền lãnh đạo chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc: “Việc giám sát đã được tăng cường. Nhà cầm quyền Trung Cộng đã quản lý và theo dõi chặt chẽ về an ninh mạng xã hội; điện thoại thông minh đã bị nghe lén. Người Duy Ngô Nhĩ không còn có thể hành hương đến Mecca (một thành phố tại vùng đồng bằng Tihamah thuộc Ả Rập Xê Út và là thủ phủ của vùng Makkah), người Tây Tạng gần như không thể đến Ấn Độ để tham dự các Pháp hội do Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ trì”.

 

Không giống như người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng được phép sử dụng các ứng dụng truyền thông xã hội như WeChat nhưng với những hạn chế như các thông tin và đăng hình ảnh của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nếu ai bất tuân được coi như hành vi phạm tội và bị bắt giam vào tù.

 

Giáo sư Robbie Barnett, chuyên nghiên cứu hồ sơ Tây Tạng thuộc đại học Columbia, ở New York, Hoa Kỳ, được The Economist dẫn lời: “Có thể chính sách này của nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc nhằm mục đích tạo ra những người Tây Tạng trong tương lai, những thế hệ kế tiếp sẽ không bao giờ biết Đức Đạt Lai Lạt Ma có một vai trò gì với Phật giáo Tây Tạng ngoại trừ là kẻ thù”

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Times Now News)

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/12/2014(Xem: 8316)
Springdales. Ngài đã được hiệu trưởng, bà Ameeta Mulla Wattal và hội đồng cùng người sáng lập trường, Rajni Kumar, năm nay đã 90 tuổi, cung đón nồng nhiệt tại trường. Trường Springdales được bà thành lập vào năm 1955 với mục đích đem lại cho người học một chương trình đào tạo toàn diện và một hệ thống giá trị nhân văn bao gồm các giá trị phổ quát như tình yêu thương, chân lý và trí tuệ.
27/11/2014(Xem: 11763)
Gần cả cuộc đời dành cho nghiên cứu và truyền bá Phật pháp, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đúc kết ra triết lý sống, thể hiện trong những câu nói giàu tính suy tưởng và chiêm nghiệm, khiến người ta nhớ mãi.
27/11/2014(Xem: 8147)
Nhìn là cái gì quen thuộc với chúng ta , mà cũng là rất xa lạ. Cái gần nhất có khi lại là cái xa lạ nhất. Có lúc nó hiện ra như dòng thác lũ phiền não nhận chìm con người. Có lúc khơi dậy những nét đẹp của cuộc sống, sự thật và hạnh phúc. Nó trở nên bí mật. Nó gây kinh ngạc, và chính nó là sự kinh ngạc.
25/11/2014(Xem: 19443)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ: "Trong thư pháp của tôi, có mực, trà, hít thở, chánh niệm và tập trung. Viết thư pháp là một môn thiền định..."
23/11/2014(Xem: 9735)
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi. Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. ( Chinh Phụ Ngâm Khúc) Trong cuộc sống có những ân tình, nhưng vì hoàn cảnh, hay vì lý do nào đó không trả được, tôi ghi mãi trong lòng, ấp ủ sâu thẳm tận trái tim như báu vật để rồi một lúc nào đó chợt nhớ lại, trân trọng với lòng tri ân vô bờ bến.
22/11/2014(Xem: 28433)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
20/11/2014(Xem: 7073)
Cái ngày ấy con lang thang vô định. Trải qua “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh” bao nhiêu thăng trầm của kiếp sống nhân sinh, bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu kỳ vọng, bao nhiêu dong ruổi kiếm tìm, bao nhiêu trượt ngã, thất bại, thất vọng não nề, bao nhiêu chán nản buồn thương uất hận với kiếp sống, con quyết định dừng cuộc phiêu lưu, vào Thiền môn “tìm lãng quên trong tiếng Kệ câu Kinh”. Bộ dạng của con hôm đó thật thiểu não, bơ phờ, thất thểu. Cửa Thiền vẫn rộng mở, lòng Từ Bi của Thầy bao dung tất cả, âu đó là cái duyên và con được nhận vào hàng ngũ xuất gia, nếu không thì chẳng biết đời con sẽ trôi giạt về đâu.
20/11/2014(Xem: 7116)
Đề tài chúng tôi nói chuyện hôm nay là: “Tìm lại mình, biết được mình là trên hết.” Đề tài này, mới nghe qua quí vị thấy quá đơn giản, nhưng thật là thiết yếu trong cuộc sống của chúng ta.
19/11/2014(Xem: 9217)
Bần cùng và giàu có là 2 danh từ nói về hai thân phận khác nhau. Phần lớn trong nhận thức của con người đều cho rằng: người nghèo cùng thì không có cái giàu có hiện hữu, và ngược lại, giàu có thì không có cái nghèo khổ hiện hữu. Kỳ thật không phải như vậy. Trên thế gian, sự nghèo giàu thật khó phân biệt. Người giàu vẫn có chỗ nghèo thiếu, và người nghèo khó vẫn có cái phú quý tàng ẩn.
18/11/2014(Xem: 8724)
Bây giờ, các con đã 16 và 19 tuổi rồi, bắt đầu hoạch định cho cuộc sống của chính mình. Thời gian qua là chuỗi ngày dường như vô tận, chúng ta chỉ mải mê ngồi đó và tán gẫu suốt ngày. Cha tiếc thời gian chúng ta hoang phí rong ruỗi ngoài bãi biển và những chuyến đi chơi dài ngày trong lần đi cắm trại ở Westfalia của gia đình mình trong khi các con chỉ ngoan ngoãn làm theo những gì cha bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]