Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôi Học Kinh Pháp Hoa

14/02/202109:11(Xem: 4825)
Tôi Học Kinh Pháp Hoa
TÔI HỌC KINH PHÁP HOA
PHỔ TẤN
buddha painting_20

1.      Dẩn nhập:

Phật giảng thuyết có ba phương cách:

 a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy,

 b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối.

c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa. Hoa sen từ vũng bùn lầy đen ngòm mà mọc lên cánh hoa màu sắc tươi đẹp nhất, rực rỡ nhất và chiếc lá to rộng nhất. Đó là Phật tánh của chúng ta đi lên từ phiền não tức bồ đề. Kinh Pháp Hoa là vua các kinh Phật và nó ra đời ở thời kỳ thứ 5 theo lịch sử đạo Phật. Và Thiên Thai tông là tông phái lấy kinh Pháp Hoa làm nòng cốt tu tập. Bồ Tát Long Thọ người tạo ra lý thuyết về Trung quán luận cũng chính là người giảng giải kinh Hoa Nghiêm và là người sơ tổ của Thiên Thai tông. Vì thế kinh Pháp Hoa tuy có vẻ một màu sắc huyền thoại phép mầu vi diệu nhưng nó hàm chứa ba chân lý và các quan điểm triết lý sâu xa Tri Kiến Phật mà chúng ta tìm hiểu. Mặc dầu chúng sanh tụng kinh Pháp Hoa để nối liền Tâm chúng sanh với Tâm Bồ Tát và cầu nguyện sự độ trì của Bồ Tát một cách huyền dịu. Đặt từ bi lên cao trong kinh Pháp Hoa nhưng cũng hàm chứa tính Trí tuệ Tri Kiến Phật trong kinh qua 28 phẩm của kinh.

 

2.      Lịch sử kinh Pháp Hoa và Thiên Thai tông: Năm thời tám giáo.

Phật giáo chia ra 5 thời gồm:

a. Thời giáo Hoa Nghiêm. Thời giáo thứ nhất này chỉ kéo dài 3 tuần, theo Trí Di, dựa trên Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm kinh (sa. buddhāvataṃsaka-sūtra) là giai đoạn giáo hoá của Phật ngay sau khi Ngài đắc đạo. Kinh Hoa Nghiêm chỉ rõ, toàn thể vũ trụ chỉ là phát biểu của cái tuyệt đối. Thời đó các vị đệ tử của Phật chưa lĩnh hội được điều này nên chỉ giảng cho chư thiên và Bồ Tát trong 21 ngày trong thiền định (tôi học kinh Hoa Nghiêm cùng tác giả)

b. Thời giáo A-hàm. Vì nhiều người không lĩnh hội kinh Hoa Nghiêm nên Phật bắt đầu giảng các kinh A-hàm (sa. āgama), thời giáo thứ hai đạo Phật nguyên thủy áp dụng thời kỳ này. Trong giai đoạn này, Phật chưa nói hết tất cả, chỉ thuyết những điều mà đệ tử có thể hiểu nổi. Phật thuyết Tứ diệu đế, Bát chính đạo và thuyết Duyên khởi. Thời giáo này kéo dài 12 năm.

c. Thời giáo Phương đẳng. Trong thời giáo này, Phật bắt đầu giảng giai đoạn sơ khởi của Đại thừa. Phật nhắc đến tính ưu việt của một vị Bồ Tát so với một vị A-la-hán và nhấn mạnh đến sự đồng nhất giữa Phật và chúng sinh, giữa tương đối và tuyệt đối.

d. Thời giáo Bát-nhã-ba-la-mật-đa, kéo dài 22 năm, chứa đựng giáo pháp của kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, tức là nói đến tính Không của vạn sự và cái ảo tưởng giả tạo của mọi hiện tượng nhị nguyên.

e. Thời giáo Diệu Pháp lien-Hoa và Đại bát-niết-bàn, là thời giáo cuối cùng, bao gồm 8 năm cuối đời đức Phật. Trong thời giáo này, Phật thuyết về thể tính duy nhất của mọi hiện tượng tưởng chừng rất khác biệt. Ba thừa là Thanh văn, Độc giác và Bồ Tát thừa chỉ có giá trị tạm thời và nằm chung trong một thừa duy nhất, đó là Nhất thừa (sa. ekayāna) hay Phật thừa (sa. buddhayāna). Trong thời giáo cuối cùng này, thời giáo của kinh Diệu pháp liên hoa và Đại bát-niết-bàn, Phật đã nói rõ và trọn vẹn nhất giáo lý của mình.

Thiên Thai tông cũng chia giáo pháp đức Phật ra làm tám hệ thống, trong đó bốn hệ thống dựa trên phương pháp và bốn dựa trên tính chất. Bốn hệ thống có tính phương pháp luận:

-Phương pháp đốn ngộ, dành cho hạng đệ tử xuất sắc nhất có khả năng tiếp cận sự thật nhanh chóng. Đó là phương pháp của kinh Hoa Nghiêm.

-Phương pháp tiệm ngộ, đi từ giản đơn đến phức tạp, là phương pháp của các kinh A-hàm, Phương đẳng, Bát-nhã ba-la-mật-đa.  Còn kinh Diệu pháp liên hoa lại không thuộc "đốn" hay "tiệm" mà chứa đựng sự thật cuối cùng.

- Phương pháp mật giáo, là cách Phật dạy cho một người nhất định và chỉ người đó được lĩnh hội. Phương pháp này có thể được Phật áp dụng trong chốn đông người, nhưng nhờ thần thông của Phật chỉ có người đó được hiểu.

- Phương pháp bất định, là phương pháp Phật dùng dạy cho nhiều người, nhưng mỗi người nghe hiểu khác nhau. Hai phương pháp 3 và 4 được Phật áp dụng khi người nghe có trình độ không đồng đều.

Bốn hệ thống có tính chất luận là:

-Tạng giáo - Giáo pháp Tiểu thừa, dành cho Thanh Văn và Độc Giác Phật,

-Thông giáo - Giáo pháp tổng quát, bao gồm Tiểu thừa và Đại thừa, dành cho Thanh Văn, Độc Giác Phật và Bồ Tát cấp thấp.

-Biệt giáo - Giáo pháp đặc biệt dành cho Bồ Tát

-Viên giáo - Giáo pháp viên mãn, tức là giáo pháp trung quán phá bỏ mọi chấp trước. Kinh Hoa Nghiêm đại diện cho giáo pháp 3 và 4. Kinh A-hàm là kinh của Tiểu thừa. Các kinh hệ Phương đẳng chứa đựng cả bốn giáo pháp. Kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa chứa giáo pháp 2, 3,4. Cuối cùng thì chỉ có kinh Diệu pháp liên hoa hàm chứa giáo pháp viên mãn.

 

3.      Triết lý kinh Pháp Hoa.

Triết lý kinh Pháp Hoa nằm trong triết lý của Thiên Thai tông Tri Kiến Phật vì 28 phẩm của kinh bao gồm nhiều về dẫn dụ biểu tượng và từng Bồ Tát một. Chúng ta tụng kinh Pháp Hoa là nối kết Tâm chúng ta với Tâm của các vị Bồ Tát nhất là Quán Thế Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát. Sự nối kết này mang tính cách vi diệu và phép mầu để cầu nguyện và nâng cao tâm từ bi cứu giúp độ tha của chính bản thân mình. Nhưng chúng ta không hiểu hết triết lý của kinh điển hình là triết lý của Thiên Thai tông. Có chùa tụng kinh Pháp Hoa và lạy mỗi ngày 2 đến 3 thời, mỗi thời 108 lạy. Như vậy là chiếm hết 8 giờ làm việc của ngày. Chúng tôi có viết bài Tôi tu theo Quán Thế ÂmBồ Tát, cho rằng Bồ Tát là một năng lượng. Mà năng lượng thì ở dạng sóng có tần số cường độ và thời gian. Chúng ta muốn tâm mình hòa nhập đồng bộ (synchronizer) với cùng tần số sóng của năng lượng Bồ Tát thì chúng ta phải tu tập theo Bồ Tát. Tu tập là có trí tuệ chứ không phải hành động lạy 108 lạy mỗi thời. Trí tuệ ấy là triết lý của kinh Pháp Hoa và tu tập là thiền định theo Bồ Tát đã từng thiền định. Chúng ta lạy Phật lạy Bồ Tát cho đến khi chúng ta nhìn Phật nhìn Bồ Tát thấy Phật Bồ Tát mỉm cười? Như thế là tâm ta và tâm Bồ Tát đã hòa nhập đồng bộ với nhau?  Lý luận này cũng có lý là nhất thiếc duy tâm tạo. Tâm ta đang cố gắng miên mật hoà nhập với Bồ Tát thì lâu dần sẽ tạo ra được sự đồng bộ.  Nhưng sự hoà nhập này có tính tưởng tượng nhiều hơn thực tế. Chi bằng chúng ta dùng thiền định đưa niệm của mình hòa nhập dòng tu với niệm của Bồ Tát sẽ hiệu quả hơn. Tu theo Thiên Thai tông là tu theo Bồ Tát kinh Pháp Hoa. Vì kinh Pháp Hoa quá phổ biến nên có sự chia 28 phẩm theo nhiều cách khác nhau như: tích môn, bổn môn, phổ môn.  Có 3 chân lý là Không, Giả, và Trung. Có 2 học thuyết: tất cả chúng sanh đều có Tánh Phật. Ba ngàn pháp giới trong một niệm. Áp dụng có 3 áp dụng: tất cả chúng sanh có Phật tánh tu thành Phật. Ba thừa gom lại thành nhất thừa gọi là Phật thừa. Tu A la Hán là còn nửa đường cần tu tiếp thành Bồ Tát và Phật. Trong 28 phẩm chú ý là phẩm Như lai thọ lượng, phẩm Tùng địa dũng xuất, phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát phổ môn và phẩm 28 Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phật.

a.      Ba chân lý: Chân lý thứ nhất cho rằng mọi pháp (sa. dharma) không có một thật thể và vì vậy trống rỗng gọi là Không

b.      Chân lý thứ hai cho rằng, tuy thế, các pháp vẫn có một dạng tồn tại tạm thời với thời gian và giác quan con người có thể nắm bắt được gọi là Giả

c.       Chân lý thứ ba tổng hợp hai chân lý đầu, cho rằng thể của sự vật lại không nằm ngoài tướng, không thể bỏ hiện tượng để tìm bản chất, thể và tướng là một gọi là Trung là giữa hai cực đoan là thể và tướng.

Quan điểm này nhấn mạnh tính toàn thể và xuyên suốt của sự vật. Cái toàn thể và cái riêng lẻ là một. Toàn bộ các pháp có khác nhau nhưng chúng đan lồng vào nhau, cái này chứa đựng cái kia. Không, giả và trung chỉ là một và từ một mà ra. (Ba là một từ một ra ba) Một khi không thì cả ba đều không, một khi giả thì cả ba đều giả, một khi trung thì cả ba đều trung. Ba chân lý của Pháp Hoa kinh là Tri Kiến Phật, đây là một triết lý rất sâu xa của Bồ tát Long Thọ về Trung quán luận. Đến nay Jaspers nhà triết học Đức nghiên cứu và luận giải Tri Kiến Phật này rất nhiêu khê. Nó nói đến sự ra đời của đức Phật giảng giải để đi đến giải thoát sinh tử. Chúng sanh bị chằng chịt bởi duyên khởi và vô minh, nghiệp quả cùng với Phật tánh tinh khiết thanh tịnh chân như khi nguyên thủy của loài người đã có sẵn trong ta. Vì nghiệp lực mà Phật tánh ấy bị đảo ngược khi sanh ra thành vô minh nên chúng sanh phải quay về lại gốc Phật tánh này bằng thiền định. Đó là Tri Kiến Phật là một triết lý do Long Thọ giảng giải giữa Tánh không theo duyên khởi và cái giả danh của vạn pháp do vô thường của chúng ta đến chân lý là Dịch Hoá Pháp di chuyển giữa chúng với nhau gọi là trung. Đức Phật đã nhiều lần im lặng không trả lời với Bà la môn về sự vô minh của chúng sanh trong khi có sẵn Tánh Phật sáng suốt ngay từ nguyên thủy của loài người, tại sao vậy? Long Thọ dùng Trung quán luận giải đáp điều ấy. Tri Kiến Phật là hiểu biết lời Phật dạy chúng sanh có Phật tánh sẵn trong ta. Chúng ta chỉ là một dòng tâm thức trôi lăng trong sanh tử chịu kết quả của nghiệp và vô minh khi sanh ra, vô thường vô ngã vô pháp vô trụ để quay về lại Tánh Phật đó. Không có ai chịu trách nhiệm của nghiệp quả vì vô ngã và phải tự mình thấp đuốc mà đi giải thoát khỏi vòng luân hồi. Triết lý trung quán rất sâu xa quán chiếu lâu dài và tinh tấn mới thấu đáo được. Phải là người có trình độ đạo Phật cao mới hiểu thấu hết đó là Tri Kiến Phật. Trung quán luận giải thích vì là vòng tròn kín nên không có bắt đầu hay chấm dứt, không đến không đi, thì tánh Phật và vô minh chuyển vận giữa hai thái cực này xảy ra luôn.

Hai học thuyết:

-1. Tất cả chúng sinh đều có Tánh Phật: vì có sẵn tánh Phật nên có thể tu giác ngộ thành Phật nên chúng ta đối xử muôn loài vật bình đẳng không khinh khi dù con kiến nhỏ bé. Chúng sinh muôn loài vì trôi trong sinh tử luân hồi nghiệp chướng nhưng Phật tánh không bao giờ bị mất đi. Chúng sanh chỉ khác nhau do duyên và nghiệp. Khi bỏ được duyên nghiệp trần cảnh thì Phật tánh loé ra như mây tan trăng tỏ. Lộ ra Phật tánh thì chúng ta thành Phật cảnh giới Phật. Phật tánh được có do kinh Pháp Hoa và Đại bát niết bàn. Trước đó không có hai chữ Phật tánh nầy.

-2. 3000 pháp giới quy về một niệm. Đây là con số được tính như sau: 10 cảnh giới gồm 6 nẻo luân hồi trời người a tu la địa ngục súc sanh ngã quỷ. Cộng với 4 cảnh giới thành Phật, Bồ Tát, Duyên giác, Thanh văn giác. 10 cảnh giới nầy nhân cho 3 cảnh thế gian gồm ngủ ấm thế gian, chúng sinh thế gian, y báo quốc độ thế gian. Mỗi cảnh giới hợp với cảnh giới khác thành 100 cảnh giới. Tổng hợp lại 3000 cảnh giới trong một niệm ở tâm và tu chứng cũng trong một tâm niệm này. Niệm chân chính là Chân như tánh Phật tự nhiên hiển lộ hiển bày toàn thể 3000 pháp giới. Nếu một niệm mê lầm thì che khuất đi 3000 pháp giới bị che lấp sẽ trôi lăng theo nghiệp duyên trần cảnh. Tu để chứng ngộ là rủ bỏ nghiệp duyên trần cảnh để tánh Phật lộ ra phá sạch mê lầm. Vậy Phật tánh chúng sinh như hai mặt của bàn tay không khác nhau xa rời nhau. Chỉ cần một niệm từ mê lầm sang giác ngộ chân tâm là được.

-Ba áp dụng: chúng sanh có Phật tánh thì tu sẽ thành Bồ Tát rồi thành Phật. Áp dụng nầy quan trong tu kinh Pháp Hoa xiển dương đạo Phật bình đẳng ai cũng thành Phật được hết.

- Áp dụng thứ hai là 3 thừa gom lại thành một thừa là Phật thừa. Áp dụng nầy xem kinh Pháp Hoa là kinh cuối cùng đức Phật tóm lại đạo Phật của ngài. Cuối đời ngài ở thế gian, người mới giảng rằng vì nghiệp vì trình độ căn cơ nên người chia đạo Phật ra làm 3 thừa để giảng cho các đệ tử, nay người gom chúng lại cuối cùng là Phật thừa mà thôi.

-Áp dụng thứ ba là đức Phật xác nhận tu thành A la Hán chỉ là đi được nửa đoạn đường, phải tu tập tiếp lên Đại thừa để hoàn thành mỹ mãn. Việc này bị Nguyên thủy chống đối nên kinh này không được Nguyên thủy công nhận là kinh của Phật.

-Tích môn Bổn môn: Ngài Trí khải, Tổ của Thiên Thai tông chủ trương nghĩa hai thân Bản, Tích, chia nội dung kinh Pháp Hoa làm hai môn Bản, Tích, tức trong hai mươi tám phẩm kinh Pháp Hoa, thì mười bốn phẩm đầu là Tích môn, mười bốn phẩm cuối là Bản môn. Tích môn lấy phẩm Phương tiện làm chủ, mở phương tiện tạm thời ba Thừa để hiển bày nghĩa chân thực một Thừa, đó tức là khai quyền hiển thực. Bản môn lấy phẩm Như lai thọ lượng làm chủ, mở dấu tích gần mới thành Phật ở Già da để hiển bày cái gốc đã thành Phật từ lâu xa, đó tức là khai tích hiển bản. Tích môn là tạm thời (pháp phương tiện), Bản môn là chân thực (lý thực tướng) tạo thành pháp mầu nhiệm tạm thời và chân thực là một thể (quyền thực nhất thể). Theo Trí khải, trong Pháp Hoa huyền nghĩa quyển 7, khi giải thích chữ Diệu trong đề kinh Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, lập ra Bản Tích nhị Trùng thập diệu, tức trong mười bốn phẩm Tích môn và mười bốn phẩm Bản môn đều có mười diệu. Trong Bản môn thập diệu, lập ra sáu trùng Bản Tích (sáu loại Bản Tích), đó là: 1. Lý sự bản tích. 2. Lý giáo bản tích. 3. Giáo hành bản tích. 4. Thể dụng bản tích. 5. Thực quyền bản tích. 6. Kim dĩ bản tích. Khi giải thích hai chữ Liên Hoa, thì trong Tích môn và Bản môn đều lập ba thí dụ, gọi là Tích Bản tam dụ, Liên hoa tam dụ.  Phổ môn là cánh cửa phổ biến, cánh cửa mở ra cho mọi loài đi vào.  Cánh cửa này không chỉ mở ra cho một hay hai, ba hạng người, mà tất cả mọi loài đều có thể đi qua cánh cửa đó để vào Phật Pháp.  Đây là một Phẩm được tụng đọc nhiều nhất của kinh Pháp Hoa, và được gọi là kinh Phổ Môn (Samantamukha) hay là kinh Quán Âm.

 

4.      Tu theo Pháp Hoa kinh Thiên Thai tông. Chúng ta đã biết rằng kinh Pháp Hoa có tính cách đại chúng, nhưng giáo nghĩa cũng rất thâm sâu.  Nói như vậy có nghĩa là những câu kinh Pháp Hoa có thể hiểu theo tính cách đại chúng, nhưng cũng có thể hiểu được theo tính cách triết học sâu sắc.  Ví dụ với câu:  Nếu có người trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì người đó dù đi vào trong lửa cháy, lửa cũng không làm người đó cháy, tại vì uy lực của Bồ Tát rất lớn lao.  Đứng về phương diện bình dân mà nói, niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm thì khỏi bị tai nạn về lửa, nhưng đứng về phương diện thực tập từ bi mà nói, khi mình có lòng thương ở trong trái tim thì lửa hận thù không cháy lên được, và mình không thấy nóng. Có hai cách tu theo Kinh Pháp Hoa:

-     Mỗi ngày có 2-3 thời vừa tụng kinh vừa lạy 108 lạy vừa sám hối. Rồi đi làm Bồ Tát giúp đời giúp chùa giúp người nghèo đói hoạn nạn. Khi tụng và lạy sám hối chúng ta nhận thấy được sự từ bi của Bồ Tát. Mổi lần tụng niệm Bồ Tát Quán Thế Âm  là ta niệm sự hiểu biết, niệm sự thương yêu, nhờ đó mà năng lượng dâm dục sẽ biến thành năng lượng hiểu biết, năng lượng thương yêu.  Do đó mà tâm ta được điều phục và thân ta được hộ trì. Nếu những người nào có nhiều oán hận và nếu biết thường niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì sẽ được giải thoát ra khỏi sân hận.

-     Cách thứ hai: tụng và lạy Bồ Tát 18 lần mà thôi và ngồi thiền quán chiếu lấy tuệ giác cho cân bằng với từ bi. Quán chiếu gì? Quán chiếu 3 chân lý Không, Giả và Trung. Vì kinh Pháp Hoa là lời Phật giảng theo biểu tượng nên đọc từng câu tụng của kinh thì quán chiếu tính biểu tưởng nó là gì? Thí dụ câu đi vào lửa không cháy có nghĩa là biểu tượng của việc lửa sân hận không còn. Câu dâm dục không còn cũng vậy có nghĩa là đưa năng lượng của chúng ta qua từ bi yêu người và học kinh Phật, hơn là yêu đương trai gái ngủ uẩn nầy yêu ngủ uẩn kia. Tánh Không theo Bồ Tát Long Thọ Trung quán luận là gì? Quán chiếu tánh Không đó theo chiều sâu như Bát Nhã Tâm Kinh. Cách thứ hai là dùng thiền định mà quán chiếu tuệ giác theo kinh Pháp Hoa và hiểu ý nghĩa biểu tượng của câu kinh. Quán chiếu về Không, Giả, Trung. Như vậy phải hiểu rõ Trung quán luận và Duyên khởi. Xin đọc bài tôi tụng Bát Nhã Tâm Kinh cùng tác giả. Không là không có tự tánh và pháp Dịch hoá pháp ở giữa hai thái cực. Giả là do duyên khởi vô thường thay đổi liên tục như kinh Kim cang. Tất cả vạn pháp là huyễn giả là không có thực. Kinh Pháp Hoa cho rằng chúng ta có thể dùng tụng kinh lạy Phật và sám hối là chuyển nghiệp xóa nghiệp, giải oan gia trái chủ từ bao kiếp trước. Điều này Thiên thai Tông không khuyến khích. Tất cả đều phải cân bằng từ bi và trí tuệ. Phải có tuệ giác về triết lý Pháp Hoa. Điều quan trọng của Pháp Hoa là gồm 3 thừa thành một thừa, vì có một Phật tánh thì chỉ Phật thừa mà thôi. Cốt lỏi của Pháp Hoa là lòng tin của chúng sanh khi tụng lạy và sám hối. Sự vi diệu quảng bá của kinh như ai tụng kinh này thì mọi việc khổ đau tai nạn nghèo đói do kiếp trước gieo nghiệp nên giờ nhận quả báo sẽ tiêu tan. Lời giải thích đó làm chúng sanh cố gắng ăn ở làm lành tránh ác và tin nhiều vào Bồ Tát tu tâm. Pháp Hoa kinh dạy nhiệm mầu vi diệu và phép mầu. Nó tương tự mê tín dị đoan nhưng dị đoan do tin tưởng trên các Bồ Tát là cổ Phật chứ không phải cùng thời với đức Phật, nên dị đoan đó tốt. Chủ trương đoàn kết các tông phái làm kinh Pháp Hoa là vua trên hết tất cả các kinh. Nó không nặng về triết lý mà nặng về Bồ Tát hạnh từ bi và tin tưởng. Trong khi triết lý của Thiên Thai tông rất cao về Trung quán luận về Tri Kiến Phật chỉ đạt được do thiền định.

 

5.      Kết Luận: Trong kinh Lăng Nghiêm có 25 vị Bồ Tát đứng lên nói về phép tu của mình trước mặt Phật. Đó là 6 căn với 6 trần với 6 thức là 18 phép tu với 7 Đại là 25. Như vậy chúng ta tu theo Bồ Tát nào thì chúng ta chọn một trong 25 phép tu đó mà quán chiếu. Phép tu theo căn trần cảnh thức và đại là lấy căn góc mà quán chiếu tính vô sanh tính Phật tánh của chúng vô sanh diệt và thanh tịnh chân như bản thể. Tu theo Pháp Hoa kinh là tu theo Thiên Thai tông nặng về Bồ Tát từ bi hơn là tuệ giác. Về khoa học góc nhìn thì kinh Pháp Hoa đi đúng đường suy tư của vật lý hiện đại là tất cả vũ trụ vạn vật từ một singulary mà giản nở ra của Stephen Hawking. Kinh Pháp Hoa nói tất cả vạn pháp quy về một hạt cải. Dùng hình ảnh biểu tượng để giảng giải ý nghĩa kinh là chúng sanh có Phật tánh là chân như của tâm nên có thể tu thành Bồ Tát Phật. Dùng thiền Chỉ để đi đến Định mà quán chiếu về Tánh Không, tuy là không nhưng vạn pháp ở một dạng tạm thời tồn tại nên gọi là giả tướng và có chức năng nhất định. Mục tiêu tu Pháp Hoa là dùng tụng niệm lạy tạ và sám hối để tâm của chúng sinh hội nhập tâm của các Bồ Tát gọi là Tri Kiến Phật. Nhưng triết lý Tri Kiến Phật rất sâu xa cao mà chỉ có thiền định mới đạt được. Vậy chúng ta cũng nên hiểu dùng thiền quán để đi đúng đường tu của Bồ Tát mà chúng ta đồng bộ với người. Chỉ có tuệ giác đồng tu với Bồ Tát chúng ta mau chóng tâm truyền tâm ấn với người. Nói nôm na là chúng ta phải có Duyên và có Chí đồng tu với Phật và Bồ Tát thì mới hội nhập với người. Muốn Tha độ là phải Tự độ Tri Kiến Phật trước là nguyên tắc cơ bản của tu tập. Kinh Pháp Hoa đúng là vua của các kinh vì nó bao gồm toàn bộ đạo Phật nên gọi là Tri Kiến Phật và triết lý Trung quán luận rất uyên thâm đúc kết toàn bộ số phận của con người. Rất nhiều người học kinh Phap Hoa chỉ chú trọng đến Bồ tát hạnh và các vị Bồ tát mà tụng niệm. Trong khi triết lý Tri Kiến Phật rất uyên thâm cao cần phải thiền định quán chiếu mới đạt được Tánh Phật. Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật!!

 

 

***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 5239)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8017)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6154)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5634)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4272)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9206)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5740)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7048)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5745)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 6366)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]