Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xá Lợi Phất Khai Thị Cấp Cô Độc

28/01/202110:15(Xem: 6518)
Xá Lợi Phất Khai Thị Cấp Cô Độc
XÁ LỢI PHẤT KHAI THỊ CẤP CÔ ĐỘC
Phổ Tấn
Buddha-305

1.      Dẫn nhập

Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời. Chúng ta nghiên cứu câu chuyện sau này để hiểu ý nghĩa sâu xa, khiến cho Cấp Cô Độc khóc và khẩn xin Xá Lợi Phất, hãy xin đức Phật cho phép giảng bài pháp này, cho các cư sĩ tại gia có được duyên học tập. Thật vậy ai rồi cũng đến ngày chết, khi chết mà đạt được ngộ đạo như Cấp Cô Độc là điều ước mơ của chúng ta. Làm sao ngộ đạo khi nghe Xá Lợi Phất giảng về 5 uẩn như vậy? Để hiểu thấu bài khai thị của Xá Lợi Phất chúng ta cần hiểu hết xuyên suốt đạo Phật. Đầu tiên là Pháp giới duyên khởi rồi đến Tánh Không Bát Nhã Tâm Kinh, sau đến Duy thức với chủng tử trong Tàng thức, rồi đến Nghiệp và sự tái sinh.[1]

2.      Ngũ uẩn trả về với ngũ uẩn là gì?

Xin phép cho chúng tôi diễn giải ý nghĩa lời Xá Lợi Phất khai thị cùng Cấp Cô Độc như sau: Cấp Cô Độc là người cúng dường cho đạo Phật rất to lớn, như vậy tâm từ bi của người cũng to lớn theo. Đạo Phật là đạo giải thoát chỉ cần Từ bi và Tuệ giác. Đó là hai cánh chim đại bàng cất cao đôi cánh bay lên Giác ngộ giải thoát sinh tử luân hồi. Đầu tiên quán chiếu về vũ trụ và chúng sanh được thành hình bằng sự chuyển động không ngừng nghỉ, mọi vật đều đang vận hành nếu ngừng lại là chết là sanh trụ hoại diệt. Vì chỗ chúng đang vận hành không bao giờ ngừng nghỉ nên gọi là Vô thường. Rồi chúng hiện hữu không bao giờ tự chúng mà có được, chúng phải có duyên dựa vào nhau mà hiện hữu, cái này có vì cái kia có, làm duyên cho nhau nên gọi là Vô ngã do duyên kết hợp mà có mặt. Vì Vô ngã nên chúng sanh Khổ và Bất tịnh. Tóm lại đã sanh ra làm người là có Vô thường Vô ngã Khổ và Bất tịnh. Phật đã giảng điều đó và chỉ rõ giải thoát chúng bằng Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên để giải phóng 4 điều khổ đau trên. Với hàng tiểu thừa Phật đã giảng về 12 nhân duyên còn gọi là Nghiệp cảm duyên khởi, tức là duyên do Nghiệp báo dẫn đường và Cảm thọ. Sau đó đến hàng Đại thừa Bồ Tát thì duyên này thành A lại da duyên khởi, tức là chủng tử xâm nhập hàng ngày vào Tàng thức để tạo nghiệp cảm luân hồi. Có nghĩa là đằng sau nguyên nhân của Nghiệp cảm duyên khởi đó là do các chủng tử ở Tàng thức tạo thành Nghiệp, đó là A lại da duyên khởi. Đi sâu hơn về chủng tử này thì mới biết Chân như, tùy duyên sinh ra chủng tử xâm nhập vào A lại da thức, nên gọi là Chân như duyên khởi. Cuối cùng là các pháp làm duyên cho nhau chằng chịt như một matrix, gọi là Pháp giới duyên khởi hay Trùng trùng duyên khởi. Duyên khởi này giữa các pháp với nhau làm duyên, viên thông hỗ trợ nhau mà thành hình.[2] Do duyên trùng trùng như thế nên có sự chuyển đổi theo luật Tùy duyên mà Bất biến rồi trở về Bất biến mà Tùy duyên. Tương tự như định luật Vật chất và Năng lượng (mass and energy conversion) của Einstein gọi là định luật Bảo tồn năng lượng: Vật chất tiêu hủy thành Năng lượng và ngược lại không bao giờ có sự mất tiêu diệt vĩnh viễn. Einstein đã từng bảo nếu bạn cho tôi một phương cách làm biến mất một hạt cát, thì tôi có thể làm cho cả vũ trụ này biến mất. Phật cũng đã dạy khi các Chân Như do tùy duyên mà hội tụ lại thì thành ra con người chúng ta, và nay khi ta chết thì tùy duyên thành bất biến Chân Như trở lại. Nói cho dễ hiểu khi có duyên thì hydrogen kết hợp với oxygen thành nước H2O và nước này vô thường thay đổi từ dạng lỏng thành thể hơi và ngược lại, nay duyên diệt thì nước trả về lại hydrogen và oxygen đó là Đơn chất (element) bất biến chân thật. Khi hội tụ đủ duyên thì 5 uẩn và 7 đại đã tạo thành hình chúng ta, nay thì 5 uẩn tan rã thì trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn, 7 đại về lại 7 đại Chân Như của chúng. Tương tự như thế khi chúng sanh đang sống là vô thường vô ngã khổ bất tịnh vì các việc này do duyên mà có, đằng sau nó là có bất biến là vô thường thì có thường, vô ngã thì có ngã, khổ thì có lạc, bất tịnh thì có tịnh. Phần đầu gọi là hình Tướng hay Động hay sinh diệt còn phần sau là Thể, Bất biến là Tịnh là Chân như. Phân tâm học gọi là hiện tượng với bản chất. Nay khi chết đi thì 5 uẩn có uẩn sắc trả về với cát bụi còn lại 4 uẩn kia là Tâm thì trả về lại Tâm thức, vào trong không gian vô tận thời gian vô cùng. Sau này do duyên hội tụ thì 7 đại kết lại Tâm thức, nhập vào thành bào thai đứa bé có đầy đủ Thân và Tâm. Bản thể Chân Như là thường lạc ngã tịnh là Pháp thân thì kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến Phật, kinh Lăng Nghiêm gọi là Chân Tâm, kinh Đại Bát Niết Bàn gọi là Phật Tánh, kinh Hoa Nghiêm gọi là Trí Huệ Phật.

Phật dạy rằng, này các tỳ kheo, tuệ giác như là lửa cháy trên cây củi là vô minh, lửa càng sáng thì cây củi càng tàn mất đi chứ lửa đó không thể có từ ngoài khác vào. Tuệ giác là Bồ Đề thì cây củi là phiền não tức Vô minh. Phiền não tức là Bồ Đề vậy. Tương tự sinh tử là nỗi đau khổ của chúng sinh thì niết bàn là niềm an lạc của chúng sanh, nên sinh tử là niết bàn. Đứng trên phương diện Tục đế thì nhìn thấy đủ mọi việc: hiện tượng, khổ đau, vô thường, vô ngã, bất tịnh, còn đứng trên phương diện Chân đế là chân thường chân ngã chân lạc chân tịnh. Chân đế này có từ Tục đế mà ra chứ không có ở ngoài mang vào. Phật pháp có từ Pháp thế gian mà có. Đứng về Duy thức thì các chủng tử xâm nhập vào càng ngày càng nhiều tạo thành nghiệp, nên các tỳ kheo cố gắng Thủ hộ 6 căn, ngăn cản 6 căn tiếp xúc 6 trần tạo 6 thức. Với muôn ngàn các chủng tử mới này đã bị dừng xâm nhập vào A lại da thức do Thủ hộ 6 căn, riêng cần quét sạch các chửng tử cũ đi ra cho Tàng thức trống không thì khó thành được. Tu hành như thế thì Đại Thừa cho rằng khó thành đạt vì lấy đá đè trên cỏ. Vì thế mới ra đời Tánh không Bát Nhã Tâm Kinh. Tánh không Bát nhã gọi ngũ uẩn giai Không thì không đây là không có tự tánh, không có độc lập, không có tự mình mà thành lập, phải do duyên mà có. Như vậy Vô ngã và rồi là Vô pháp. Tất cả các pháp do duyên hợp là nên gọi là Giả hợp. Giả đây là không thật cố định vững bền nên nó hiện hữu như là có thật, nhưng không đứng yên thật sự, do mỗi sắc na nó thay đổi luôn luôn nên nó có mặt như là giả, như huyễn như ảo. Nhờ quán chiếu Tánh không nên bứng cội rễ của tham sân si. Các chủng tử mới sanh sẽ không xâm nhập vào Tàng thức và các chủng tử cũ lâu đời cũng sẽ bị quét sạch bởi Tánh không của vạn pháp, của vô ngã và vô pháp. Còn như tu tập diệt trừ lậu hoặc đợi nó ló lên thì chặt đứt, sẽ khó mà chấm dứt cho đến ngày chết đi. Chủng tử mới không có nhưng chủng tử cũ lâu đời vẫn còn đó thì không sao thoát được luân hồi. Như thế Tánh Không Bát Nhã là bổ sung diệt trừ lậu hoặc tận cùng.

3.      Nghiệp và sự tái sinh  .

 Đức Phật dạy chúng sanh có Nghiệp và Quả báo. Nghiệp là hành động do thân khẩu ý tạo thành. Nghiệp do cố ý hành động hoặc vô ý hành động. Từ đó Nghiệp tạo ra kết quả gọi là Nghiệp Quả. Từ nghiệp sanh ra quả còn có Duyên đứng ở giữa nên gọi là luật Nghiệp Duyên Quả. Duyên ở đây là lý Duyên khởi là có điều kiện. Nghiệp chính là lý giải được ý nghĩa của luân hồi. Phật dạy Nhất thiếc duy Tâm tạo nên duyên ở giữa Nghiệp và Quả bị ảnh hưởng ở Tâm, vì thế ta tu tâm để chuyển nghiệp. Tu tâm là an trụ Tâm và điều phục Tâm. Tu tâm nhận được Tánh Không, tâm chúng sanh là Không thì nghiệp tiêu trừ. Quán theo Bát nhã Tánh Không thì nghiệp cũng là không có tự tánh. Và rồi Vô ngã thì không có ai chịu nhận lãnh nghiệp quả, chỉ toàn là một vòng nhân duyên kín xoay vần. Do vậy Nghiệp tùy thuộc vào Hành của chúng sanh. Vì không có ngã nên không có ai chèo thuyền qua bên kia bờ. Tất cã là dòng Tâm thức vận hành mà thôi. Dòng Tâm thức đó chịu nhận Quả báo của Nghiệp thành vòng tròn kín xoay vòng mãi mãi.

4.      Kết luận: Ngộ đạo.

Tất cả hình tướng ngay cả tướng của chúng ta đều là không có thật, Thật tướng chính là Vô tướng. Phật dạy Chân không nên có Diệu hữu. Vì Chân không nên không có hình tướng vì thế nó không có Vô thường, nó không dấy động nên nó Vô sanh. Phật dạy không chấp vào hình tướng gồm 4 tướng: Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng. Ngã tướng là chấp vào có cái tôi, Nhân tướng là chấp vào tướng của người, nhân loại tướng, Chúng sanh tướng là chấp vào chúng sanh có thật, Thọ giả tướng là chấp vào thời gian của vạn vật có tuổi tác. Qua Bát nhã thì tánh không có mặt là Chân không. Hiểu theo Tục đế thì Không đây là “không có”, hiểu theo Chân đế thì Chân Không là vắng lặng tịch diệt. Chân Không thì vô tướng còn “không có” là hữu tướng. Chân Không thì vô lậu còn “không có” là hữu lậu. Chân Không là vô vi còn “không có” là hữu vi, vi đây được hiểu là vipassana: giác biết. Như đã kể trên, để có Tánh giác thì Vô minh chỉ cần tiêu hủy đi như que củi và ngọn lửa. Như nước trong và nước đục. Tục đế thì thấy nước đục vì nó có lậu hoặc. Chân đế thì thấy nước trên trời mưa xuống là nước tinh khiết, nhưng vì rớt xuống đất nên có bụi trần làm đục. Vậy cứ để nước đục đó lắng yên, tĩnh lặng thì lậu hoặc trầm lắng xuống thành nước trong trở lại. Vậy do duyên thành nước đục tức là từ Bất biến thành Tùy duyên, và cũng vậy để lắng tụ thì Tùy duyên thành Bất biến. Đại Thừa Khởi Tín nói đến Thể Dụng và Tướng thì hiểu thấu Chân không Diệu hữu và từ đó ngộ được đạo, là nhận được chân thực của vạn pháp. Như thị, vô sanh, vô phân biệt, vô trụ không bám không chấp. Như kinh Bahiya Sutta khi 6 căn tiếp xúc 6 trần mà 6 thức không bám không chấp vào, không có phân biệt cái Tôi xen vào thì là Giác ngộ là Chân tâm hiện ra. Phật dạy rằng: Này Bahiya, trong cái được Thấy sẽ chỉ là cái được Thấy; trong cái được Nghe sẽ chỉ là cái được Nghe; trong cái được Thọ tưởng sẽ chỉ là cái được Thọ tưởng; trong cái được Thức Tri sẽ chỉ là cái được Thức Tri. Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya. “khi với ông, này Bahiya, trong cái được Thấy chỉ là cái được Thấy… [nhẫn tới]… trong cái được Thức Tri chỉ là cái được Thức Tri, thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘ Với đó  .’ Này Bahiya, khi ông không là ‘Với đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘ Trong đó  .’ Này Bahiya, khi ông không ‘Trong đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không ở nơi này, cũng không ở nơi kia, cũng không ở chặng giữa. Thế này, chỉ thế này, là đoạn tận khổ đau.”[3] Không còn không gian và thời gian số lượng, như thị và không trụ, không phân biệt. Đó là Ngộ đạo là Thức thành Trí tuệ Bát nhã. Hiểu được lời Phật dạy là 6 căn tiếp xúc 6 trần mà 6 thức phân biệt không sanh ra do Thủ hộ 6 căn giỏi. Kế tiếp là không “với đó” “trong đó” là không còn không gian thời gian của ý thức. Bahiya Ngộ Đạo ngay tức thì trước khi bị con bò hút chết. Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật !!

Tham khảo:

 1-Tôn giả Xá Lợi Phất và trưởng giả Cấp Cô Độc, tác giả: Toàn không. Tham khảo: Thư viện Hoa sen.

2- Pháp giới duyên khởi, Tác giả: Lê sỹ minh Tùng, tham khảo: Thư viện hoa sen

3.- Bahiya sutta, Tác giả: Nguyên Giác Phan Tấn Hải, tham khảo: Thư viện hoa sen.




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2013(Xem: 43792)
9780975783085, Cách phi trường quốc tế Melbourne 15 phút lái xe, theo Western Ring Road và exit vào Hume High Way, sau đó quẹo trái từ đường Sydney road, đi vào con đường Lynch thân thương, khách hành hương sẽ nhìn thấy một quần thể kiến trúc nổi bật trong vùng cư dân này, đó là Bảo Tháp Tứ Ân và cổ lầu của chánh điện Tu Viện Quảng Đức, tọa lạc tại số 105 Lynch Road, vùng Fawkner
09/11/2013(Xem: 14756)
Chọn cách ẩn tu trong một hang động hẻo lánh trên rặng núi Ky Mã Lạp Sơn, cách biệt với thế giới bên ngoài bởi những rặng núi tuyết phủ, ni sư Tenzin Palmo đã tu luyện tại đây trong suốt 12 năm. Ở đó ni sư đã phải chiến đấu với cái lạnh cắt da cắt thịt, với những thú hoang dã, với sự khan hiếm thực phẩm và tuyết lở.
08/11/2013(Xem: 7868)
Ngày 20.09.2013. Ngài Đạt Lai Lạt Ma đến thăm Chùa Viên Giác, chuyến ghé thăm chớp nhoáng vài giờ trên đường Ngài ra phi trường để bay về trú xứ. Tình cờ vào trang nhà Quảng Đức đọc được bài phóng sự sống động „Nụ cười bất diệt“ của chị Hoa Lan viết. Bài nào của chị ấy mà chả sôi nổi đầy hình ảnh, đọc như xem phim. Chị ấy viết về những tâm đắc qua buổi pháp thoại và cả những lo âu cho những người bạn đạo của chị khi không có vé vào, đến khi có được vé rồi thì phải chụp hình ngay tấm vé có tên mình, làm như sợ để lâu chữ sẽ bay đi hết.
07/11/2013(Xem: 11481)
Sống làm sao cho cuộc đời trở nên đáng sống, có ý nghĩa, có lý tưởng, có thương yêu hiểu biết thì đó là Ðời Ðạo. Còn như chạy theo Ðạo mà quan niệm hẹp hòi, bảo thủ cố chấp, không khoan dung độ lượng thì đó là Ðạo Ðời. Có người sống cả đời chỉ để làm một việc lợi ích thôi, như Lão tử, đến và đi không tung tích, để lại độc nhất một quyển Ðạo Ðức Kinh giá trị vô cùng, há không phải là một đại thiền sư hay sao?
05/11/2013(Xem: 10478)
Một hôm, nhạc sĩ Dương Thụ mời tôi đến Cà phê thứ 7 của anh trò truyện một bữa cho vui. Được thôi. Tôi vẫn thỉnh thoảng đến chỗ anh để uống cà phê và nghe chuyện trò mà. Đề tài gì? Thiền và sức khỏe. Vấn đề đang rất được giói trí thức quan tâm. Căn phòng nhỏ xíu, nhưng trang nhã, ấm cúng. Một, chỗ chơi nhạc thính phòng, họp mặt bạn bè, kiểu salon thế kỷ 18 – chỉ thiếu một nữ bá tước – để chuyện trò thân mật, cách biệt với ồn ào nhộn nhịp ngoài kia.
30/10/2013(Xem: 12885)
Tạp chí nghiên cứu người tiêu dùng Journal of Consumer Research công bố một khảo sát năm 2012, kiểm chứng rằng tại sao người tiêu dùng là nam giới lại thường tránh xa chuyện ăn chay. Trong đó, khảo sát này nhấn mạnh "Thịt dường như đồng nghĩa với quyền lực và sức mạnh đàn ông".
30/10/2013(Xem: 39744)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
30/10/2013(Xem: 8620)
Một nữ doanh nhân nổi tiếng trong lĩnh vực địa ốc, nổi tiếng vì sở hữu nhiều ngôi nhà đẹp, từng có nhiều bài viết sắc sảo về kinh doanh. Thời gian gần đây chị “từ bỏ cuộc chơi” để tìm về với Phật pháp và chọn Huế là nơi chốn dừng chân của mình. Trong một thời gian ngắn từ 2010 đến nay, chị đã xây dựng ở Huế ba công trình từ thiện và nổi bật là Cát Tường Quân với kiến trúc độc đáo và thanh tịnh đang trở thành điểm đến của du khách mỗi khi dừng chân ở Huế.
29/10/2013(Xem: 12773)
Trong lá thư này, Lạt Ma Zopa Rinpoche trả lời cho một sinh viên học lâu năm với Ngài, một người đã viết thư để cảm ơn Ngài đã “cầu nguyện, dạy dỗ và che chở” trong nhiều năm qua. Người sinh viên xin được giấu tên hiện đang chăm sóc cho Mẹ đang chịu nhiều đau đớn về thể xác sau khi bị hàng loạt những cơn đột quỵ. Như là một phương pháp để đương đầu với những khó khăn khi chăm sóc, người sinh viên đã tưởng tượng như đang chăm sóc cho Ngài Zopa Rinpoche khi chăm sóc cho Mẹ cô.
26/10/2013(Xem: 63564)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]