Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học

28/12/202008:20(Xem: 5112)
Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học

Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học

(Why so many Americans think Buddhism is just a philosophy)

 Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học-Tu viện Sakya

Hình 1: Tu viện Sakya Phật giáo Tây Tạng, tọa lạc tại  Seattle, Washington. Wonderlane, CC BY

 

Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.

 

Chào mừng đến với Phật giáo, theo phong cách Hoa Kỳ. 

 

Ảnh hưởng Phật giáo thuở Bình minh

 

Đạo nhiệm mầu và Hạnh Đức Như Lai, đại hùng đại lực, tự do bình đẳng, Phật giáo đã thẩm thấu vào tâm thức văn hóa Mỹ vào cuối thế kỷ 19. Đây là thời kỳ những quan niệm lãng mạn về chủ nghĩa thần bí phương Đông đặc dị, đã thúc đẩy trí tưởng tượng của các nhà thơ, nhà triết học Mỹ, những người tinh thông nghệ thuật và các học giả sơ khai về các tôn giáo thế giới.

 

Các nhà thơ siêu việt như Henry David Thoreau (1817-1862) và Ralph Waldo Emerson (1803-1882) đã nghiên cứu sâu sắc triết học Ấn Độ giáo và Phật giáo, cũng như Đại tá Phật tử Henry Steel Olcott (1832-1907), người đã du hành đến Sri Lanka vào cuối thế kỷ 19, những thập niên 1880, cải đạo sang Phật giáo và thành lập dòng Triết học huyền bí phổ biến được gọi là Thần học, người đầu tiên nổi tiếng người Mỹ gốc châu Âu đã thực hiện một sự cải tổ đạo Phật, một nhân vật hiện đại Phật giáo vì những nỗ lực của ông trong việc giải thích Phật giáo thông qua một ống kính Tây phương.

 Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học-Cao Ly Tam Tạng Kinh mộc bản

Hình 2: Vị tăng sĩ Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc tại Kho lưu trữ Cao Ly Tam Tạng kinh mộc bản, Di sản Thế giới, Tổ đình Pháp bảo Hải Ấn Tự, Hàn Quốc. Bảo tàng Mỹ thuật, Boston. Lorianne DiSabato, CC BY-NC-ND

 

Trong khi đó, những người tinh thông nghệ thuật Phật giáo đã giới thiệu Hợp chúng quốc Hoa Kỳ về vẻ đẹp truyền thống. Nhà sử học nghệ thuật và giáo sư triết học, Ernest Fenellosa (1853-1908), nhà sử học nghệ thuật người Mỹ về nghệ thuật Nhật Bản , giáo sư triết học và kinh tế chính trị tại Đại học Hoàng gia Tokyo, cũng như đồng nghiệp Bostonia William Sturgis Bigelow(1850-1926) của ông, là một trong những người Mỹ đầu tiên đến Nhật Bản, cải đạo sang Phật giáo và say mê sưu tầm nghệ thuật Phật giáo. Khi họ trở về quê nhà, các bộ sưu tập của họ đã trở thành cốt lõi của bộ sưu tập Nghệ thuật châu Á, được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật, Boston.

 

Đồng thời các học giả đầu tiên của các tôn giáo thế giới như Paul Carus đã khiến người Mỹ dễ dàng tiếp cận giáo lý từ bi trí tuệ Phật giáo. Ông đã xuất bản “Tin Phúc âm của Đức Phật” (The Gospel of Buddha), một bộ sưu tập các truyện ngụ ngôn Phật giáo bán chạy nhất, một năm sau khi tham dự Nghị viện Tôn giáo Thế giới ở Chicago, Hoa Kỳ vào năm 1893. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, đại diện từ các tôn giáo lớn trên thế giới cùng ngồi lại bên nhau trên tinh thần từ bi, bác ái, cùng chia sẻ, tìm hiểu về truyền thống tâm linh của nhau.

 

Phái đoàn Phật giáo tại Chicago bao gồm Thiền sư Phật giáo Nhật Bản Thích Tông Diễn  (釋宗演, Shaku sōen), Cao tăng Anagārika Dharmapāla (1864-1933), nhà cải cách Phật giáo Sri Lanka,  người góp công lớn trong việc phục hưng Phật giáo tại Ấn Độ, người đã nghiên cứu khoa học và triết học phương Tây để hiện đại hóa truyền thống của mình. Những Phật giáo đồ chịu ảnh hưởng phương Tây này đã trình bày truyền thống của họ cho khán giả phương Tây hiện đại của họ, như là một truyền thống không phải là thần học và huyền thoại, không có các vị thần cạnh tranh, tín ngưỡng phi lý hoặc các nghi lễ được cho là vô nghĩa.

 

Liên tục và Thay đổi

 Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học-Thiền sư Suzuki Daisetsu TeitarōTại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học-Jack Kerouac

Hình 3: Pressmaster/ Shutterstock.com

 

Trên thực tế, Phật giáo truyền thống có nhiều vị thần, giáo lý và nghi lễ, cũng như các văn bản thiêng liêng, các linh mục được phong chức, đạo đức, sự phát triển giáo phái và các yếu tố khác mà người ta thường liên kết với bất kỳ tôn giáo có tổ chức nào. Nhưng tại Nghị viện Thế giới năm 1893, các bậc thầy Phật giáo đã ưu ái trình bày truyền thống thiền định của họ cho quốc gia Hoa Kỳ hiện đại chỉ như một thực tiễn triết lý, không phải là một tôn giáo. Nhận thức này của Phật giáo vẫn tồn tại ở Hoa Kỳ cho đến ngày nay.

 

Những Phật tử đã không cố tình xuyên tạc truyền thống của học, hoặc chỉ nói người Mỹ những gì họ muốn nghe. Họ đã thành thật trong nỗ lực tạo ra một truyền thống 25 thế kỷ có liên quan đến cuối thế kỷ 19.

 

Nhưng cuối cùng họ chỉ cấy ghép vài nhánh cây Bồ đề, Hoa Bát nhã lớn hơn nhiều của Phật giáo vào đất Mỹ. Chỉ có một vài đoạn triết học, nghệ thuật và thiền định Phật giáo du nhập vào châu Mỹ, trong khi nhiều yếu tố truyền thống khác của tôn giáo Phật giáo vẫn còn sót ở phía sau châu Á.

 

Phật giáo tại Hoa Kỳ

 

Một khi đại thụ Bồ đề, Hoa Bát Nhã được trồng nơi đất Hợp chúng quốc, người Mỹ trở nên đặc biệt say mê với hấp dẫn lực huyền bí của thiền định Phật giáo.

 

Thiền sư Suzuki Daisetsu Teitarō (鈴木大拙貞太郎, Linh Mộc Đại Chuyết Trinh Thái Lang) (1870-1966), một học giả lừng danh người Nhật, người đã góp công rất nhiều trong việc truyền bá Thiền tông sang Tây phương, từng là học sinh và dịch giả của Thiền sư Phật giáo Nhật Bản Thích Tông Diễn  (釋宗演, Shaku sōen) tại Quốc hội Thế giới, đã ảnh hưởng đến nhiều nghệ sĩ và trí thức hàng đầu trong thời kỳ hậu chiến. Nhờ các tác phẩm nổi tiếng của ông, và các làn sóng tiếp theo của các vị giáo thụ sư Phật giáo châu Á và Hoa Kỳ, Phật giáo đã tác động đến hầu hết mọi khía cạnh của văn hóa Mỹ. 

 

Các sáng kiến công bằng xã hội, và môi trường đã thực hiện một phong trào được gọi là “Phật giáo Nhập thế” (Engaged Buddhism) kể từ khi Martin Luther King Jr. đề cử người sáng lập, một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, nhà hoạt động chống chiến tranh và người vận động cho hòa bình người Việt Nam Thích Nhất Hạnh, cho giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1967. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người vận động cho phong trào hòa bình, với các giải pháp không bạo lực cho các mâu thuẫn. Dòng tu Tiếp Hiện (The Order of Interbeing) do Ngài sáng lập, Liên tục tiếp tục đề xuất các giải pháp chánh niệm, bất bạo động cho các mối quan tâm đạo đức cấp bách nhất của thế giới.

 

Hệ thống giáo dục Hoa Kỳ đã được làm phong phú bởi trường đại học liên kết Phật giáo đầu tiên tại Đại học Nāropā (Nāropā University), một trường đại học tư được thành lập năm 1974,  tọa lạc tại Boulder, Colorado, mở đường cho các tổ chức giáo dục đại học khác như Đại học Soka, Mỹ (Soka University of America, SUA) Đại học West, California và Đại học Maitripa, ngôi trường Đại học Phật giáo Tây Tạng nằm ở Portland, Oregon.

 

Cơ sở y tế cũng đã tích hợp giảm căng thẳng, dựa trên thiền chánh niệm vào các liệu pháp chính thống, và nhiều chương trình quản lý tức giận là một chương trình tâm lý trị liệu để ngăn ngừa và kiểm soát sự tức giận trong nhà tù, dựa trên các kỹ thuật chiêm niệm của Phật giáo như thiền minh sát Vipassanā.

 

Điều tương tự cũng đúng với ngành công nghiệp giải trí, đã kết hợp các chủ đề Phật giáo vào các bộ phim bom tấn Hollywood, ví dụ như Ma trận (The Matrix) là một bộ phim khoa học viễn tưởng, hành động Mỹ được sản xuất năm 1999 do Lana Wachowski và Lilly Wachowski đồng đạo diễn và hãng phim Warner Bros phát hành. Ngay cả các vận động viên chuyên nghiệp, cũng đã sử dụng phương pháp công phu tu tập thiền định trong chiến lược huấn luyện, và tiếp tục hiểu biết về Phật giáo Hoa Kyg, không phải là một tôn giáo của Hồi giáo, mà là một triết lý thế tục với các ứng dụng phổ cập.

 

Nhưng Phật giáo thế tục của Hoa Kỳ cũng đã gây nên một số hậu quả không lường trước được. Các tác phẩm của Thiền sư Suzuki Daisetsu Teitarō đã ảnh hưởng đến Jack Kerouac (1922-1969), một tiểu thuyết gia và nhà thơ Mỹ, một tiền thân của phong trào hippie, tác giả nổi tiếng bởi các tác phẩm “Thế hệ Beat” (Beat On Road) và “Phía sau Phật giáo” (The Dharma Bums), nhưng Thiền sư Suzuki Daisetsu Teitarō xem ông Jack Kerouac là một kẻ “mạo danh quái dị” (monstrous imposter), và ông ta chỉ tìm kiếm hành vi nhận thức tự do của Phật giáo mà không nghiêm trì giới luật.

 

Các nhà thơ Beat, hippies khác, và sau này là những người “Tự lực tự cánh sinh (New Age, DIY) thời đại mới cũng đã nhầm lẫn Phật giáo là một kiểu tự ái buông thả, bất chấp những lý tưởng cao đẹp như từ bi, bác ái. Vẫn còn những người khác đã khai thác thương mại sự hấp dẫn kỳ lạ của mình để bán tất cả mọi thứ từ “Thiền trà” (Zen tea), đến “Bia Phật Di lặc” (Lucky Buddha Beer), đặc biệt mỉa mai khi đưa ra tuyên bố truyền thống của Phật giáo thì không được lạm dụng rượu bia và các chất gây say khác.

 

Do đó, việc xây dựng phổ biến Phật giáo phi tôn giáo, đã đóng góp nhiều vào hiện tượng đương đại “tâm linh nhưng không tôn giáo”, cũng như cho phong trào thiền chánh niệm bị thế tục hóa và biến tướng hóa tại Mỹ.

 

Chúng tôi có thể chỉ vun trồng một phần của đại thụ Bồ đề và cây hoa Bát Nhã lớn hơn của Phật giáo tại Hoa Kỳ,, nhưng cắt của chúng tôi đã thích nghi, và bén rễ trong thời đại thế tục, khoa họ và thương mại hóa cao của chúng tôi. Tốt hơn và xấu hơn, đó là Phật giáo kiểu Mỹ.

 

* Ghi chú của biên tập viên: Chúng tôi đã thay đổi hình ảnh chính của tác phẩm gốc cho thấy Lama Sogyal Rinpoche tại Tu viện Sakya ở Seattle, Washington, sau những cáo buộc tấn công tình dục chống lại ông.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: The Conversation Media Group Ltd)




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2015(Xem: 10197)
1. Bí mật của Đức Đạt Lai Lạt Ma: Đừng lo lắng về những thứ bạn không thể thay đổi và hãy có được chín giờ ngủ mỗi đêm. 2. "Mang theo thông điệp tình yêu, lòng khoan dung, và sự tha thứ." 3. "Hãy xem nhân loại là đồng nhất, sau đó không có cơ sở để giết hại lẫn nhau. Tôi yêu đời sống của tôi. Mọi người đều có quyền được sống hạnh phúc. Hầu hết các vấn đề gây ra bởi con người. Giết chóc, bắt nạt, bóc lột. Chúng ta phải tìm giải pháp dài hạn. Điều này rất khó khăn.
01/07/2015(Xem: 13531)
Hề chi một phận đời riêng Buông hơi nằm xuống mà nghiêng đất trời Thiếu ta, đời cũng vậy thôi! Ta là hạt bụi giữa đời bao la..
01/07/2015(Xem: 24236)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 20120)
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là
01/07/2015(Xem: 11466)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
29/06/2015(Xem: 9272)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8214)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12181)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 31259)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 13087)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]