Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học

28/12/202008:20(Xem: 5150)
Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học

Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học

(Why so many Americans think Buddhism is just a philosophy)

 Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học-Tu viện Sakya

Hình 1: Tu viện Sakya Phật giáo Tây Tạng, tọa lạc tại  Seattle, Washington. Wonderlane, CC BY

 

Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.

 

Chào mừng đến với Phật giáo, theo phong cách Hoa Kỳ. 

 

Ảnh hưởng Phật giáo thuở Bình minh

 

Đạo nhiệm mầu và Hạnh Đức Như Lai, đại hùng đại lực, tự do bình đẳng, Phật giáo đã thẩm thấu vào tâm thức văn hóa Mỹ vào cuối thế kỷ 19. Đây là thời kỳ những quan niệm lãng mạn về chủ nghĩa thần bí phương Đông đặc dị, đã thúc đẩy trí tưởng tượng của các nhà thơ, nhà triết học Mỹ, những người tinh thông nghệ thuật và các học giả sơ khai về các tôn giáo thế giới.

 

Các nhà thơ siêu việt như Henry David Thoreau (1817-1862) và Ralph Waldo Emerson (1803-1882) đã nghiên cứu sâu sắc triết học Ấn Độ giáo và Phật giáo, cũng như Đại tá Phật tử Henry Steel Olcott (1832-1907), người đã du hành đến Sri Lanka vào cuối thế kỷ 19, những thập niên 1880, cải đạo sang Phật giáo và thành lập dòng Triết học huyền bí phổ biến được gọi là Thần học, người đầu tiên nổi tiếng người Mỹ gốc châu Âu đã thực hiện một sự cải tổ đạo Phật, một nhân vật hiện đại Phật giáo vì những nỗ lực của ông trong việc giải thích Phật giáo thông qua một ống kính Tây phương.

 Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học-Cao Ly Tam Tạng Kinh mộc bản

Hình 2: Vị tăng sĩ Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc tại Kho lưu trữ Cao Ly Tam Tạng kinh mộc bản, Di sản Thế giới, Tổ đình Pháp bảo Hải Ấn Tự, Hàn Quốc. Bảo tàng Mỹ thuật, Boston. Lorianne DiSabato, CC BY-NC-ND

 

Trong khi đó, những người tinh thông nghệ thuật Phật giáo đã giới thiệu Hợp chúng quốc Hoa Kỳ về vẻ đẹp truyền thống. Nhà sử học nghệ thuật và giáo sư triết học, Ernest Fenellosa (1853-1908), nhà sử học nghệ thuật người Mỹ về nghệ thuật Nhật Bản , giáo sư triết học và kinh tế chính trị tại Đại học Hoàng gia Tokyo, cũng như đồng nghiệp Bostonia William Sturgis Bigelow(1850-1926) của ông, là một trong những người Mỹ đầu tiên đến Nhật Bản, cải đạo sang Phật giáo và say mê sưu tầm nghệ thuật Phật giáo. Khi họ trở về quê nhà, các bộ sưu tập của họ đã trở thành cốt lõi của bộ sưu tập Nghệ thuật châu Á, được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật, Boston.

 

Đồng thời các học giả đầu tiên của các tôn giáo thế giới như Paul Carus đã khiến người Mỹ dễ dàng tiếp cận giáo lý từ bi trí tuệ Phật giáo. Ông đã xuất bản “Tin Phúc âm của Đức Phật” (The Gospel of Buddha), một bộ sưu tập các truyện ngụ ngôn Phật giáo bán chạy nhất, một năm sau khi tham dự Nghị viện Tôn giáo Thế giới ở Chicago, Hoa Kỳ vào năm 1893. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, đại diện từ các tôn giáo lớn trên thế giới cùng ngồi lại bên nhau trên tinh thần từ bi, bác ái, cùng chia sẻ, tìm hiểu về truyền thống tâm linh của nhau.

 

Phái đoàn Phật giáo tại Chicago bao gồm Thiền sư Phật giáo Nhật Bản Thích Tông Diễn  (釋宗演, Shaku sōen), Cao tăng Anagārika Dharmapāla (1864-1933), nhà cải cách Phật giáo Sri Lanka,  người góp công lớn trong việc phục hưng Phật giáo tại Ấn Độ, người đã nghiên cứu khoa học và triết học phương Tây để hiện đại hóa truyền thống của mình. Những Phật giáo đồ chịu ảnh hưởng phương Tây này đã trình bày truyền thống của họ cho khán giả phương Tây hiện đại của họ, như là một truyền thống không phải là thần học và huyền thoại, không có các vị thần cạnh tranh, tín ngưỡng phi lý hoặc các nghi lễ được cho là vô nghĩa.

 

Liên tục và Thay đổi

 Tại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học-Thiền sư Suzuki Daisetsu TeitarōTại sao Đa số Công dân Mỹ xem Phật giáo Đậm chất Triết học-Jack Kerouac

Hình 3: Pressmaster/ Shutterstock.com

 

Trên thực tế, Phật giáo truyền thống có nhiều vị thần, giáo lý và nghi lễ, cũng như các văn bản thiêng liêng, các linh mục được phong chức, đạo đức, sự phát triển giáo phái và các yếu tố khác mà người ta thường liên kết với bất kỳ tôn giáo có tổ chức nào. Nhưng tại Nghị viện Thế giới năm 1893, các bậc thầy Phật giáo đã ưu ái trình bày truyền thống thiền định của họ cho quốc gia Hoa Kỳ hiện đại chỉ như một thực tiễn triết lý, không phải là một tôn giáo. Nhận thức này của Phật giáo vẫn tồn tại ở Hoa Kỳ cho đến ngày nay.

 

Những Phật tử đã không cố tình xuyên tạc truyền thống của học, hoặc chỉ nói người Mỹ những gì họ muốn nghe. Họ đã thành thật trong nỗ lực tạo ra một truyền thống 25 thế kỷ có liên quan đến cuối thế kỷ 19.

 

Nhưng cuối cùng họ chỉ cấy ghép vài nhánh cây Bồ đề, Hoa Bát nhã lớn hơn nhiều của Phật giáo vào đất Mỹ. Chỉ có một vài đoạn triết học, nghệ thuật và thiền định Phật giáo du nhập vào châu Mỹ, trong khi nhiều yếu tố truyền thống khác của tôn giáo Phật giáo vẫn còn sót ở phía sau châu Á.

 

Phật giáo tại Hoa Kỳ

 

Một khi đại thụ Bồ đề, Hoa Bát Nhã được trồng nơi đất Hợp chúng quốc, người Mỹ trở nên đặc biệt say mê với hấp dẫn lực huyền bí của thiền định Phật giáo.

 

Thiền sư Suzuki Daisetsu Teitarō (鈴木大拙貞太郎, Linh Mộc Đại Chuyết Trinh Thái Lang) (1870-1966), một học giả lừng danh người Nhật, người đã góp công rất nhiều trong việc truyền bá Thiền tông sang Tây phương, từng là học sinh và dịch giả của Thiền sư Phật giáo Nhật Bản Thích Tông Diễn  (釋宗演, Shaku sōen) tại Quốc hội Thế giới, đã ảnh hưởng đến nhiều nghệ sĩ và trí thức hàng đầu trong thời kỳ hậu chiến. Nhờ các tác phẩm nổi tiếng của ông, và các làn sóng tiếp theo của các vị giáo thụ sư Phật giáo châu Á và Hoa Kỳ, Phật giáo đã tác động đến hầu hết mọi khía cạnh của văn hóa Mỹ. 

 

Các sáng kiến công bằng xã hội, và môi trường đã thực hiện một phong trào được gọi là “Phật giáo Nhập thế” (Engaged Buddhism) kể từ khi Martin Luther King Jr. đề cử người sáng lập, một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, nhà hoạt động chống chiến tranh và người vận động cho hòa bình người Việt Nam Thích Nhất Hạnh, cho giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1967. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người vận động cho phong trào hòa bình, với các giải pháp không bạo lực cho các mâu thuẫn. Dòng tu Tiếp Hiện (The Order of Interbeing) do Ngài sáng lập, Liên tục tiếp tục đề xuất các giải pháp chánh niệm, bất bạo động cho các mối quan tâm đạo đức cấp bách nhất của thế giới.

 

Hệ thống giáo dục Hoa Kỳ đã được làm phong phú bởi trường đại học liên kết Phật giáo đầu tiên tại Đại học Nāropā (Nāropā University), một trường đại học tư được thành lập năm 1974,  tọa lạc tại Boulder, Colorado, mở đường cho các tổ chức giáo dục đại học khác như Đại học Soka, Mỹ (Soka University of America, SUA) Đại học West, California và Đại học Maitripa, ngôi trường Đại học Phật giáo Tây Tạng nằm ở Portland, Oregon.

 

Cơ sở y tế cũng đã tích hợp giảm căng thẳng, dựa trên thiền chánh niệm vào các liệu pháp chính thống, và nhiều chương trình quản lý tức giận là một chương trình tâm lý trị liệu để ngăn ngừa và kiểm soát sự tức giận trong nhà tù, dựa trên các kỹ thuật chiêm niệm của Phật giáo như thiền minh sát Vipassanā.

 

Điều tương tự cũng đúng với ngành công nghiệp giải trí, đã kết hợp các chủ đề Phật giáo vào các bộ phim bom tấn Hollywood, ví dụ như Ma trận (The Matrix) là một bộ phim khoa học viễn tưởng, hành động Mỹ được sản xuất năm 1999 do Lana Wachowski và Lilly Wachowski đồng đạo diễn và hãng phim Warner Bros phát hành. Ngay cả các vận động viên chuyên nghiệp, cũng đã sử dụng phương pháp công phu tu tập thiền định trong chiến lược huấn luyện, và tiếp tục hiểu biết về Phật giáo Hoa Kyg, không phải là một tôn giáo của Hồi giáo, mà là một triết lý thế tục với các ứng dụng phổ cập.

 

Nhưng Phật giáo thế tục của Hoa Kỳ cũng đã gây nên một số hậu quả không lường trước được. Các tác phẩm của Thiền sư Suzuki Daisetsu Teitarō đã ảnh hưởng đến Jack Kerouac (1922-1969), một tiểu thuyết gia và nhà thơ Mỹ, một tiền thân của phong trào hippie, tác giả nổi tiếng bởi các tác phẩm “Thế hệ Beat” (Beat On Road) và “Phía sau Phật giáo” (The Dharma Bums), nhưng Thiền sư Suzuki Daisetsu Teitarō xem ông Jack Kerouac là một kẻ “mạo danh quái dị” (monstrous imposter), và ông ta chỉ tìm kiếm hành vi nhận thức tự do của Phật giáo mà không nghiêm trì giới luật.

 

Các nhà thơ Beat, hippies khác, và sau này là những người “Tự lực tự cánh sinh (New Age, DIY) thời đại mới cũng đã nhầm lẫn Phật giáo là một kiểu tự ái buông thả, bất chấp những lý tưởng cao đẹp như từ bi, bác ái. Vẫn còn những người khác đã khai thác thương mại sự hấp dẫn kỳ lạ của mình để bán tất cả mọi thứ từ “Thiền trà” (Zen tea), đến “Bia Phật Di lặc” (Lucky Buddha Beer), đặc biệt mỉa mai khi đưa ra tuyên bố truyền thống của Phật giáo thì không được lạm dụng rượu bia và các chất gây say khác.

 

Do đó, việc xây dựng phổ biến Phật giáo phi tôn giáo, đã đóng góp nhiều vào hiện tượng đương đại “tâm linh nhưng không tôn giáo”, cũng như cho phong trào thiền chánh niệm bị thế tục hóa và biến tướng hóa tại Mỹ.

 

Chúng tôi có thể chỉ vun trồng một phần của đại thụ Bồ đề và cây hoa Bát Nhã lớn hơn của Phật giáo tại Hoa Kỳ,, nhưng cắt của chúng tôi đã thích nghi, và bén rễ trong thời đại thế tục, khoa họ và thương mại hóa cao của chúng tôi. Tốt hơn và xấu hơn, đó là Phật giáo kiểu Mỹ.

 

* Ghi chú của biên tập viên: Chúng tôi đã thay đổi hình ảnh chính của tác phẩm gốc cho thấy Lama Sogyal Rinpoche tại Tu viện Sakya ở Seattle, Washington, sau những cáo buộc tấn công tình dục chống lại ông.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: The Conversation Media Group Ltd)




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/09/2015(Xem: 10184)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai? Có một con cáo đã phát hiện ra một chuồng gà, nó bèn tìm cách tiếp cận nhưng vì cáo nhà ta quá mập nên không thể chui lọt vào chuồng để ăn gà. Thế là nó đành phải nhịn đói suốt ba ngày liền mới có thể vào được chuồng gà. Sau khi vào được, nó đã ăn no nê để bù lại những ngày nhịn đói, giờ đây chiếc bụng của cáo đã phình to ra, nên không thể nào ra được nữa, thế là cáo đành phải nhịn đói trở lại ba ngày mới có thể ra khỏi chuồng gà.
25/09/2015(Xem: 7942)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ở tuổi 80 của tôi thuộc thế hệ thế kỷ 20. Những người trẻ dưới 30 tuổi thuộc thế hệ của thế kỷ 21. Ngài thừa nhận rằng thế hệ của thế kỷ 20 đã tạo ra nhiều vấn đề, bao gồm cả thiệt hại cho môi trường. Một số ý tưởng của họ, chẳng hạn như quan điểm cho rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng vũ lực hiện nay là hoàn toàn lỗi thời. Đức Đạt Lai Lạt Ma từ bến phà Millbank Pier đi đến The The O2 Arena, Greenwich, Luân Đôn, Vương quốc Anh. 19/09/2015. (Ảnh: Jeremy Russell)
24/09/2015(Xem: 8403)
Khi chung ta bước đi, với tâm địa Từ Bi rộng mở mang theo, làm tất cả những việc lành cho tất cả chúng sanh là chúng ta đã mở rộng biên giới hòa bình ngày một dang rộng. Những bước chân ấy đáng gọi là những bước chân Từ Bi. Có những điều khi tiếp cận với Phật học, dù với bất cứ trình độ nào, chưa chắc một sớm một chiều mình hiểu ra ngay hết được. Đôi khi phải đợi đến nhiều chục năm sau, thậm chí gần hết đời người rồi mình mới bừng tỉnh về một điều giác ngộ chưa trọn vẹn. Khi xưa mình nghe kể chuyện đức Phật Đản sanh, dưới bảy bước đi đều nở bảy đóa hoa sen. Thần thoại, truyền thuyết hay hư cấu cho lung linh một sự kiện về đấng giáo chủ của mình; hãy cứ để đó. Sau này ghé sang Làng Mai, chạm phải những công án Thiền của Ngài Nhất Hạnh, chúng ta bắt gặp câu “Từng bước nở hoa sen” thì mới vỡ òa nhiều khúc mắc ngày xưa còn kẹt lại trong một góc tối của tâm trí nào đó.
24/09/2015(Xem: 9095)
Sau tiếng ré lên của cái chuông bấm ở cửa, mình đã nghe tiếng chìa khoá lách cách tra vào ổ khoá của cánh cửa song sắt ở bên trong. Một chập sau, cánh cửa "Trại Cải Huấn Thanh Thiếu Niên Phạm Pháp" (Jugendarrestanstalt, viết tắc là JAA) tại Nienburg nặng chịt, rít lên tiếng sắt cọ sát trên thềm xi măng, mở ra. Bước chân vào, vài câu chào hỏi trao đổi với cô giám thị. Cửa chánh đóng lại. Cô giám thị hướng dẫn mình đi qua một cánh cửa song sắt. Lại đứng chờ. Sau khi nó lại khóa lại, thì có cảm giác "mình đi lại tự do trong Trại Cải Huấn" được rồi! Tiến về phòng điều hành. Từ bên ngoài đã thấy ông "xếp" trại, ba nam giám thị, cô giám thị khi nãy; hai cô tác viên xã hội (Sozialarbeiterin) và thêm bốn thiếu nữ lạ mặt. Ông "xếp" trại giới thiệu bốn thiếu nữ lạ ấy cũng là tác viên xã hội ở các tù khác đến tìm hiểu kinh nghiệm hướng dẫn của "thầy JIP" - tên là Diệp, nếu đọc không bỏ dấu và theo âm Đức thì là "Dieb"; mà "Dieb" có nghĩa là "kẻ cắp"! Còn nếu phát âm tương đối đúng thì v
24/09/2015(Xem: 9125)
Phải nói thật rằng câu hỏi này lởn vởn trong đầu tôi nhiều lần, trong nhiều năm nay. Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Mà cũng có thể tôi là người ngớ ngẩn. Ai đời lại đi đặt câu hỏi mà đứa trẻ học tiểu học cũng có câu trả lời thế này. Ấy thế mà khi ngồi tĩnh tâm tại ngôi chùa lớn nhất thế giới Borobudur, Indonesia câu hỏi này lại hiện về. Hiện về 1 cách rất rõ nét. Đây là lần thứ 3 câu hỏi này làm tôi trăn trở nhiều nhất.
21/09/2015(Xem: 7688)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?) thì Phật bảo rằng không có gì khó cả, các vị Đại Bồ tát đều hàng phục tâm bằng cách như vầy... như vầy...
21/09/2015(Xem: 10242)
Tôi gặp bà lần đầu tiên trong một phiên họp thường niên lãnh đạo Hiệp hội Xuất bản ASEAN diễn ra tại thủ đô Jakarta, Indonesia. Ấn tượng của tôi về lãnh đạo cao cấp này của Hội sách lớn nhất thế giới được tổ chức thường niên vào tháng 10 là bà rất nhẹ nhàng, rất Á đông, rất gần gũi, rất nhiệt tình. Tôi cũng đặc biệt vui khi bà quan tâm đến Việt Nam. Trong phiên hop này, lãnh đạo Hội xuất bản Việt Nam bận hết nên tôi làm trưởng đoàn. Vậy là ngoài các buổi làm việc chung với trưởng đoàn của Hội xuất bản các nước ASEAN tôi có các buổi làm việc riêng với nhiều lãnh đạo các nhà xuất bản các nước, trong đó có buổi làm việc với bà Claudia Kaiser, người phó chủ tịch rất hiểu biết và thân thiện của Frankfurt Book Fair.
21/09/2015(Xem: 8111)
Khi mẹ mất, con cháu đều có mặt. Qua bao năm đất nước tang thương, chiến tranh khốc liệt, đàn con gian truân trong nghề nghiệp, trong lửa đạn. Có đứa vào quân đội, cả năm không thấy mặt, không biết ở đâu. Sau chiến tranh mọi người đều tìm cách bỏ xứ. Đứa trước đứa sau, qua rừng qua biển, rồi tìm cách đưa được mẹ sang xứ người. Các con làm lại sự nghiệp, các cháu học hành giỏi, thành công vượt mực. Ai cũng nói: “Cụ thật có phước, cụ thật có phước, được Phật độ !”
20/09/2015(Xem: 11927)
Tâm dục được xếp hạng trên tất các sắc tướng, gọi là Sắc Dục, mà mê đắm sắc đẹp đưa đến dâm dục là điều cốt yếu của mọi vấn đề trên cõi Ta Bà. Tham dâm dục thôi thúc trong lòng khiến con người phải hành động để được thoả mãn ham muốn. Khi cái luồng chân khí ái dục này dâng lên thì si ái tình, khi đi xuống thì tham nhục dục. Mà ái có nghĩa là yêu thương thuộc tình cảm với cảm giác cao thượng. Dục là sự si mê, thèm khát thể xác. Khi dâng lên khi hạ xuống bất thường thì bị tẫu hỏa nhập ma, thất tình lục dục, đưa đến hành động phi luân, phạm pháp, vô đạo tai hại khôn lường cho mình cho người. Dục gồm có lục dục hay ngũ dục. Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần; mắt thích nhìn những sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh êm dịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm những vị ngon, thân thích đụng chạm êm ái, ý thích nghĩ tới tham si. Ngũ dục là năm thứ ham muốn của người đời không dễ gì loại bỏ. Kinh Phật nói về Ác Dục, Niệm Dục: Chư hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục th
20/09/2015(Xem: 8482)
Hôm nay là ngày rằm, từ sáng sớm bà chủ đã ngỏ lời: “Hây, tối nay kính mời khách thưởng trà ngắm trăng với chúng tôi trong vườn nhà”. Khi ráng chiều vừa tắt, bà chủ đưa cho khách bộ Yukata (Kymono mặc mùa hè), một đôi tất trắng, một đôi guốc xỏ ngón và một cái hoa vải màu hồng nâu. Thấy khách lúng túng, hiểu ý, bà chủ ân cần hướng dẫn khách sử dụng từng loại. Bà chủ chia sẻ: “Mặc Yukata khó nhất và đẹp nhất là cái đai quanh thắt lưng”. Miệng nói, tay làm, bà giúp khách hoàn thiện cái đai này. Bà lại hồn hậu: “Búi tóc kiểu Nhật cũng không là việc dễ”, rồi đôi tay bà chủ thoăn thoắt, chỉ mươi phút mái tóc của khách đã được búi cao lại còn giắt thêm cái hoa vải màu hồng nâu sau gáy. Khách nghĩ, mình đã tươm tất lắm rồi, thì nghe bà chủ nhắc khéo: “Mặc Yukata đôi chân phụ nữ phải được bọc trong đôi vớ trắng và bước đi với đôi guốc xỏ ngón”. Nghe lời, khách mang vớ, mang guốc rồi thử bước đi; xong, khách thầm nhủ “mang đôi guốc này mà không té là điều kỳ diệuJ”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]