Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại hộ pháp Hoàng đế ltan Khan, đánh dấu Triều đại Phật giáo Mông Cổ hưng thịnh

24/12/202010:37(Xem: 4199)
Đại hộ pháp Hoàng đế ltan Khan, đánh dấu Triều đại Phật giáo Mông Cổ hưng thịnh

Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp,
Đánh dấu Triều đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh

(1507-1583)

 Hoàng đế Phật tử ltan Khan 1

Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.

 

ltan Khan (A Nhĩ Thản Hãn, Алтан хан, ᠠᠨᠳᠠ,  阿爾坦汗) của người Tümed,  1507-1583), là thủ lĩnh của người Tümed Mông Cổ, nhà cai trị thực tế bởi các bộ lạc phương Tây của người Mông Cổ. Ngài là cháu trai của Dayan Khan (1464 - 1543), một Đại hãn của nhà Bắc Nguyên tại Mông Cổ, hậu duệ của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt (1215 - 1294), là khả hãn (khagan) thứ năm của đế quốc Mông Cổ, và là người sáng lập ra triều đại nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc. Hoàng đế Phật tử ltan Khan, người đã hợp nhất một liên minh bộ lạc giữa người Khalkha ở khắp phía bắc và người Chahar ở phía nam.

 

Củng cố Quyền lực

 

Borjigin Barsboladiin Altan là Hoàng tử của Bars Bolud Jinong, Hoàng đế của triều đại Bắc Nguyên; Trị vì: (1525 – 1531), và là cháu trai của Batumongke Dayan Khan, người đã tái thống nhất giới quý tộc Mông Cổ, trong nỗ lực giành lại vinh quang cho triều đại nhà Nguyên. Hoàng đế Phật tử ltan Khan cai trị bộ tộc Tümed, và cùng với anh trai Gün Bilig thuộc phe cánh hữu của người Mông Cổ, người trị vì Ordos. Sau cái chết của Gün Bilig năm 1542, ltan Khan trở thành thủ lĩnh của toàn bộ cánh hữu và được trao danh hiệu “Tösheetü Sechen Khan”.

 

Khi Bodi Alagh Khan, Khả hãn Mông Cổ, Tại vị: (1519 - 1547) từ Chahar, qua đời năm 1547, người kế vị Bodi Alagh Khan là Darayisung Küdeng Khan, Khả hãn Mông Cổ,  Tại vị: (1547 - 1557) phải chạy trốn về phía đông.

 

Năm 1551, Darayisung Küdeng Khan đã thỏa hiệp với ltan Khan để đổi lấy việc trao danh hiệu “Gegeen Khan” cho ông. Hoàng đế Phật tử ltan Khan cai trị bộ tộc Ordos Tümed của Mông Cổ, tuyệt vời việc giữ áp lực với người Trung Hoa và người Mông Cổ Oirat ở Tây Tạng, không khi phát triển cả nông nghiệp lẫn thương mại.

 

Hoàng đế Phật tử ltan Khan đã thành lập thành phố Köke Khota (Hohhot, nghĩa là “thành phố Xanh“), hiện là thủ phủ của khu tự trị Nội Mông của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Có một pho tượng ấn tượng về Ngài ở một trong những quảng trường chính của thành phố.

 

Khai thác Quân sự

 

Hoàng đế Phật tử ltan Khan đã sử dụng sức mạnh quân sự của mình để đe dọa Vương triều nhà Minh của Trung Quốc. Ngài đã dẫn đầu các cuộc đột kích vào nội địa Trung quốc vào những thập niên 1529, 1530 và 1542 trở về với sự cướp bóc và chăn nuôi. Năm 1550, Ngài vượt qua Vạn Lý Trường Thành và bao vây Bắc Kinh, phóng hỏa đốt cháy vùng ngoại ô.  

 

Năm 1552, Hoàng đế Phật tử ltan Khan giành quyền kiểm soát phần còn lại của Karakorum, thủ đô của Mông Cổ. Hoàng đế Trung Hoa đã buộc phải trao quyền thương mại đặc biệt cho Hãn quốc, sau khi ký Hiệp ước hòa bình với Ngài vào năm 1571, cho phép họ đổi ngựa lấy lụa, điều này càng củng cố kinh tế. Trong triều đại của mình, Hoàng đế Phật tử ltan Khan đã thực hiện một số chiến dịch quân sự thành công ở phía tây chống lại những người Oirat nổi loạn, Người Kazakh và người Slovak, đưa họ trở lại dưới sự cai trị của Ngài.

 

Buộc nhà Minh phải đàm phán sòng phẳng

 

Một năm sau thất bại nặng nề, hoàng đế Minh Thế Tông buộc phải mở cửa vùng biên cương để các thương nhân Mông Cổ tự do giao thương. Dê và ngựa Mông Cổ là những món hàng đặc biệt được người Trung Hoa thường xuyên tìm mua.

 

Triều đình Trung Hoa mở cửa giao thương với người Mông Cổ là điều “cực chẳng đã” vì nhà Minh ở thời điểm đó không hề nhận thấy lợi ích, trong khi vàng bạc từ trong nước liên tục chảy vào túi các thương nhân Mông Cổ.

 

Vải vóc, món hàng rất được ưa chuộng ở thời nhà Minh chủ yếu được sản xuất ở Giang Nam. Việc đưa hàng hóa trải qua chặng đường dài đến vùng biên cương giao thương với người Mông Cổ là một bất lợi lớn.

 

Ngược lại, các thương nhân Mông cổ không gặp mấy khó khăn để đưa ngựa, dê và gia súc vào Trung Nguyên. Cục diện thời bấy giờ được đánh giá giống như một cuộc chiến tranh thương mại, nhà Minh chỉ có chủ trương đóng cửa biên giới mới có thể ngăn người Mông Cổ không ngừng làm giàu nhờ Trung Nguyên.

 

Tuy vậy, cứ mỗi lần nhà Minh đóng cửa không buôn bán ngựa với người Mông Cổ là Hoàng đế Phật tử ltan Khan lại đem kỵ binh đến cướp bóc.

 

Năm 1571, hai bên đạt thỏa thuận hòa bình lâu dài, trong đó nhà Minh phong tước vị cho Hoàng đế Phật tử ltan Khan, mở cửa giao thương trên phạm vi toàn bộ biên giới Trung Hoa-Mông Cổ.

 

Ổn định tình hình biên giới, Hoàng đế Phật tử ltan Khan quay sang liên minh với người Tây Tạng, tiếp nhận Phật giáo Tây Tạng vào Tây Mông Cổ.

 

Hoàng đế Phật tử ltan Khan được biết đến là người lập nên thành phố Hohhot (呼和浩特), thủ phủ khu tự trị Nội Mông, Trung Quốc ngày nay. Bức tượng lớn được đặt ở quảng trường trung tâm của thành phố chính là tượng Hoàng đế Phật tử ltan Khan.

 

Hoàng đế Phật tử ltan Khan là một trong những Khả Hãn cuối cùng của gia tộc Bột Nhi Chỉ Cân, hậu duệ Thành Cát Tư Hãn. Gia tộc này đã đánh mất hoàn toàn tầm ảnh hưởng ở Mông Cổ kể từ khi bị người Mãn xâm chiếm vào thế kỷ 17.

 

Băng hà và người Kế vị

 

Hoàng đế Phật tử ltan Khan băng hà vào năm 1583, chỉ bốn năm sau cuộc gặp với Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba. Lúc đó Ngài tuổi ngoài thất thập cổ lai hy. ltan Khan được kế vị bởi Hoàng tử Sengge Düüreng Tại vị (1582-1586), người được triều đình nhà Minh ủng hộ. Cháu trai của Altan Khan, Yonten Gyatso, được chọn làm Đạt Lai Lạt Ma thứ 4.

 

Sự cầu học Phật pháp

 

Năm 1577, Hoàng đế Phật tử ltan Khan đã cử một Sứ giả đến Tây Tạng, để tỏ lòng tôn kính với Đại sư Tông chủ của Giáo phái Gelug, Sonam Gyatso. Năm 1578, một nhóm người Mông Cổ bảo trợ và vị Đạo sư người Tây Tạng này đã gặp nhau trên bờ hồ Kokonor (Chinghai) để tổ chức Giới đàn truyền Thụ giới luật Phật pháp. Hoàng đế Phật tử ltan Khan đã ban Thánh chỉ Sắc phong cho Hòa thượng Bổn sư danh hiệu “Wachir-dara Dalai Lama” (thường được xưng tôn kính là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba), và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba đã ban cho Hoàng đế Phật tử ltan Khan Pháp danh “Tsadrawar Sechen Khan”. Do đó, sự hỗ trợ của một Mạnh Thường Quân Mông Cổ, Giáo phái Gelug, Trung tâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba, đã đạt được sự ưu tiên hơn tất cả những Giáo phái Phật giáo khác tại Tây Tạng. Ngoài ra, Hoàng đế Phật tử ltan Khan cho rằng, Uy tín của người Mông Cổ tăng lên nhờ những lời chúc Phúc Cát tường của nhà lãnh đạo tôn giáo kiệt xuất của “Vùng cao nguyên núi Tuyết”. Sự quy y Tam bảo, thụ trì giới luật Phật pháp của Hoàng đế Phật tử ltan Khan, đã thúc đẩy sự truyền bá chính pháp Phật đà tại Mông Cổ, bộ tộc Tümed, Đại hãn, có trụ sở chính lúc đó ở phía đông Nội Mông, đã coi Phật giáo là tôn giáo chính thức của họ. Cả hai cuộc chuyển hóa này đều có ảnh hưởng sâu rộng, mang lại ánh sáng từ bi, trí tuệ, hùng lực, tự do, bình đẳng đạo Phật, đến với thủ lĩnh của người Mông Cổ Trung Á, Oirad, những người vốn là kẻ thù của cả Đại hãn và Altan.

 

Sau khi Hoàng đế Phật tử ltan Khan và các quý tộc Mông Cổ khác đã quy y Tam bảo, thụ trì giới luật Phật pháp, trở thành Phật tử, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba đã chỉ định Dongkhar-Manjushiri Khutughtu làm đại diện với tư cách tuyên úy trong quân đội tại Koke-Khota, thủ đô của Altan Khan, và ở nơi đây để diễn thuyết diệu pháp Như Lai trong quân đội Mông Cổ.

 

Vào những thập niên 1570, Hoàng đế Phật tử ltan Khan cho xây dựng tu viện Thegchen Chonkhor và ban Thánh chỉ cung thỉnh Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba, Tông chủ của Giáo phái Gelug, Sonam Gyatso đến Mông Cổ để tuyên thuyết giáo pháp Như Lai và truyền bá đạo Phật. Tu viện Thegchen Chonkhor, cơ sở tự viện đầu tiên của Mông Cổ, và khởi xướng một dự án quy mô trong việc dịch Tam tạng thánh điển Phật giáo Tây Tạng sang tiếng Mông Cổ. Sau nửa thế kỷ, Phật giáo Tây Tạng đã lan rộng khắp Mông Cổ, và hàng chục nghìn người xuất gia trở thành tăng sĩ Phật giáo Mông Cổ.

 

Năm 1583, Hoàng đế Phật tử ltan Khan đã băng hà, và đến năm 1585, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba đến Koke-khota để lập đàn Siêu độ cho vị Minh quân Phật tử Hộ pháp, và khai đàn truyền giới tại Ordos, các vùng khác của Mông Cổ. Điều này đã khiến Koke-Khota trở thành trung tâm Phật giáo tại Mông Cổ.

 

Thời kỳ hưng thịnh thứ hai bắt đầu từ triều đại của, Hoàng đế Phật tử ltan Khan, khi Mông Cổ có giao lưu với Phật giáo Tây Tạng, chính vì thế mà Giáo phái Gelugpa (Phái Mũ Vàng), Kim Cương thừa Phật giáo Tây Tạng được chính thức truyền vào Mông Cổ, và phát triển nhanh trên quốc gia Địa lý Mông Cổ đa dạng với Sa mạc Gobi, và nhanh chóng phát triển trên đất nước này qua sự bảo trợ của Hoàng đế Phật tử ltan Khan.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Encyclopedia of Buddhism)

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2014(Xem: 26430)
Thơ và Tạp Bút là tập sách mà chúng tôi kết hợp chia làm hai phần: Phần đầu là những bài thơ mà chúng tôi đã sáng tác sau khi tập thơ Hướng Dương ra đời. Phần hai là những bài viết rời rạc qua những chủ đề khác nhau. Chúng tôi kết hợp lại tất cả những bài viết đó để in chung trong tập sách. Chúng tôi đặt danh đề chung cho quyển sách là “Một Cõi Đi Về”. Vì chúng tôi thiết nghĩ, cõi đời có muôn vạn nẻo nhưng lối về nguồn chơn thì chỉ có một. Giống như trăm sông, ngàn suối tuôn chảy mỗi hướng có khác nhau, nhưng tất cả cũng đều chảy chung về biển cả. Nói cách khác, đứng về mặt hiện tượng sự tướng thì vạn pháp có ra muôn ngàn sai khác, nhưng bản thể thì chỉ có một. Đó là ý nghĩa của câu nói: “Vạn vật đồng nhứt thể hay vạn pháp quy nhứt”.
04/06/2014(Xem: 8665)
Hàm Nguyệt Sơn (Hamwolsan), Cốt Quật Tự (骨 窟 寺-Golgulsa Temple), tọa lạc tại số 304, ấp An Đông (An-dong-ri), Thị trấn Dương Bắc (Yangbuk-myeon), Thành phố Khánh Châu (Gyeonguju-si), tỉnh Khánh Thượng Bắc đạo (Gyeongsangbuk-do) thuộc khu đồi Khánh Bắc (Gyeongbuk), cách nội địa biển Đông ba dặm.
04/06/2014(Xem: 10168)
Các bạn chắc đã đọc rất nhiều lời khuyên của các vĩ nhân, có thể thấy chán. Nhưng tôi vẫn muốn viết về một người, là ông Einstein. Ông Einstein là một trường hợp rất đặc biệt.
02/06/2014(Xem: 11992)
Phật Giáo được thực hành tại nhiều nước Á Đông dưới nhiều hình thức, sự khác biệt là do bởi những tín đồ là con cháu của những người lập nghiệp ban đầu đến từ Trung Hoa, Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka, Ấn Độ, v.v...Cũng có nhiều người đơn giản tự gọi mình là "Phật tử" và thực hành một số nghi lễ mà họ học được từ cha ông dưới danh nghĩa của tôn giáo này.
02/06/2014(Xem: 10145)
Mùa xuân năm nay, tại Đạo tràng Mai Thôn đã diễn ra Đại giới đàn Cam Lộ Vị, bắt đầu từ ngày 23.05 đến ngày 28.5.2014. Lễ rước giới bổn được tổ chức thật long trọng tại chùa Pháp Vân, xóm Thượng. Dường như đất trời cũng hòa chung niềm vui của tứ chúng Làng Mai trong ngày khai mạc Đại giới đàn. Ngay khi giới bổn được rước vào thiền đường Nước Tĩnh thì trời bổng nhiên đổ mưa. Những giọt nước cam lộ rơi xuống làm cho đất trời và lòng người đều mát mẻ, thanh lương.
01/06/2014(Xem: 18965)
Đây là tập sách do chúng tôi biên soạn, đặc biệt, là những bài mang tính cách lễ nghi hành trì. Những bài, do chúng tôi biên soạn gồm có: “Oai nghi của một tu sinh, những nghi thức dành cho khóa tu, bài hát sinh hoạt đạo tràng”. Ngoài ra, còn có những bài sám, nghi thức lạy thù ân, mà chúng tôi đã sưu tập kết hợp lại để vào trong tập sách này.
30/05/2014(Xem: 9902)
Báo Tuổi trẻ cách đây ít ngày có đăng câu chuyện về một người Mỹ có một cô con nuôi gốc Việt ở với ông từ hồi còn bé , nhưng cô ấy vẫn nói tiềng Việt nhu một người Việt Nam thuần túy . Điều tôi muốn nói đây không phải về người con nuôi gốc Việt , mà về ông cha nuôi người Mỹ . ông ta là thi sĩ và là giáo sư đại học , tên Bruce Weigl.
30/05/2014(Xem: 11160)
Tôi được gặp và quen thầy Pháp Bảo vào năm 1999 trong dịp đi lễ Vu Lan tại chùa Thuyền Lâm cùng với ba mẹ. Lúc đó thầy còn là chú và tôi hay gọi là chú Tấn. Sau thời gian dài vào tu học ở Sài Gòn, trong chuyến thầy ra Huế kỵ tổ ở chùa Thuyền Lâm, tôi mới gặp lại thầy Pháp Bảo. Trong câu chuyện hỏi thăm, lần đầu tiên tôi nghe thầy tâm sự về gia đình thầy. Trong lòng tôi bỗng dâng lên một nỗi xúc động đến kỳ lạ khi nghe câu chuyện về mẹ và anh chị em của thầy. Tôi thật sự rất khâm phục và tự hào về tình cảm thương yêu, hiếu kính của gia đình thầy.
28/05/2014(Xem: 8763)
Thật ra nếu không yêu thương thì làm sao sống được? Xã hội bây giờ có nhiều người tự tử, trong đó có rất nhiều người trẻ, đó là vì họ không có khả năng thương yêu. Thương yêu trước hết là thương yêu cuộc đời. Phải yêu cuộc đời thì mới sống được. Cuộc đời ở trong cơ thể mình, trong tim mình, ở xung quanh mình. Chán đời thì không sống được. Vì vậy chúng ta phải thực tập “yêu đời”. Sự sống là một cái gì rất quý giá.
27/05/2014(Xem: 8037)
Tôi tiễn tuần cũ với 2 sự kiện quan trọng: thứ 7 là buổi nói chuyện với mấy trăm bạn trẻ mới đi làm tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình về chủ đề “Tư duy để thành công” và chủ nhật là chia sẻ với vài trăm phật tử tỉnh Hòa Bình về chủ đề “Giàu và nghèo”. Niềm vui thật giản đơn khi bằng cách này hay cách khác tôi đã chia sẻ những lời Phật dạy với bất cứ ai có thể. Đối với tôi, việc này cũng như ăn, cũng như cách mình nạp năng lượng, nhưng chỉ có khác là không ăn bằng miệng mà bằng não, bằng tâm. Đầu tuần tôi nghe tin nhạc sỹ Thuận Yến qua đời và đám tang diễn ra sáng thứ 3. Giật mình!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]