Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cội nguồn thơ: nơi vô cùng tịch lặng

21/12/202012:25(Xem: 7651)
Cội nguồn thơ: nơi vô cùng tịch lặng

 

Cội nguồn thơ: nơi vô cùng tịch lặng

Nguyên Giác

 

   Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.

   Chúng ta có thể kinh nghiệm được cái tịch lặng. Nó không phải là âm thanh, cũng không phải là cái vô thanh. Khi chúng ta gõ lên một tiếng chuông, tịch lặng là cái bao trùm cả ba thời của tiếng chuông, hiển lộ trước, trong khi và sau khi tiếng chuông tắt. Cho nên, cái tịch lặng tận cùng, vẫn nằm sẵn trong âm thanh và xuyên suốt qua ba thời quá-hiện-vị-lai của âm thanh. Đó là cái tịch lặng không dựa vào đâu hết, và là tận cùng hạnh phúc. Do vậy, trong bài Kệ 134 của Kinh Pháp Cú, Đức Phật nói rằng nếu bạn giữ tịch lặng như một cái chiêng (cồng) bể, bạn sẽ chứng Niết Bàn.

Rất ít nhà thơ viết về cái tịch lặng, cái tận cùng của ngôn ngữ. Thơ là lời nói, là chữ viết, do vậy không dễ viết lên được cái tận cùng và là cái bao trùm của ngôn ngữ. Một số nhà thơ đã viết lên cái kinh nghiệm về tịch lặng, trong đó có lẽ nổi tiếng nhất là Ba Tiêu (Basho), một nhà thơ Nhật Bản của thế kỷ 17. Một trong những bài thơ nổi tiếng của Ba Tiêu (1644–1694) là viết về sự tịch lặng sâu thẳm hiển lộ khi tiếng ve sầu kêu ngấm vào trong đá. Bài thơ Ba Tiêu viết theo thể thơ haiku, ba dòng, khi lên núi thăm Chùa Yama-dera vào năm 1689.

Xin dịch bài thơ “Chùa Núi” như sau:

Tịch lặng sâu thẳm
tiếng kêu của ve sầu
ngấm vào trong đá.

            —Matsuo Basho (1644–1694)

Một bài thơ khác của Ba Tiêu, nhan đề là Gió Mùa Thu, cũng nói về cái đẹp của tịch lặng khi nhà thơ đứng giữa trận gió mùa thu. Bài thơ xin dịch như sau.

Tôi có nên nói một lời
môi tôi lạnh rồi
giữa trận gió thu.

Đọc lại cuộc đời của Ba Tiêu, chúng ta sẽ thấy rằng phải trải qua trăm cay nghìn đắng trong đời rồi mới tới lúc nhìn thấy cái tịch lặng sâu thẳm trong tiếng ve sầu ngấm vào đá núi. Không chỉ được xem như là nhà thơ nổi tiếng nhất thời kỳ Edo, ông còn là một thiền sư đã kiến tánh. Các tài liệu, trong đó có Wikipedia, ghi rằng ông có tên đầy đủ là Matsuo Bashō (Tùng Vĩ Ba Tiêu), sinh trong một gia đình samurai, và nổi tiếng làm thơ hay từ thời niên thiếu. Năm 1666, ông đến Kyoto và sống ở đây 5 năm, tiếp tục đọc văn học Nhật Bản cổ đại, nghiên cứu văn học Trung Quốc và cả thư pháp. Mùa xuân năm 1672, sau một thời gian về quê chừng vài tháng, ông dời lên sống ở Edo (nơi bây giờ có tên là Tokyo).  Trong những năm này, ông đã thử làm nhiều nghề khác nhau nhưng dần dần cảm thấy mình chỉ hợp với văn học, ông bắt đầu mở lớp dạy thơ haikai, một thể loại thơ trào lộng, nhẹ nhàng và phóng túng, vốn rất thịnh hành trong thời Tokugawa.

Sau khi theo học Thiền Tông với nhà sư Phật Đỉnh (Butchō), một Thiền sư dòng Lâm Tế, Ba Tiêu trải qua một số kinh nghiệm kiến tánh. Những kinh nghiệm giác ngộ được ông ghi lại trong những bài thơ, đặc biệt là những tác phẩm được hình thành trong thập niên cuối đời của ông. Năm 1682 ông dời về Koshu và từ đó lấy bút hiệu là Bashō (Ba Tiêu). Năm sau ông trở lại Edo và dựng lại "Ba tiêu am". Ba Tiêu sáng tạo ra một phong cách mới là Shōfu (Tiêu Phong), ẩn ý về đời người nghệ sĩ như những tàu lá ba tiêu bị xé tan trong gió những đêm giông bão), và dần dần hoàn thiện một loại thơ ngắn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 từ những câu đầu (hokku) của thể thơ renga và thể thơ cực ngắn ấy về sau được mọi người biết đến với cái tên đã trở thành bất hủ haiku. Hai bài thơ vừa dịch trên là làm theo thể haiku.

Đọc thơ Ba Tiêu, chúng ta có thể cảm nhận được cái tịch lặng vô cùng tận đã nằm sẵn trong chữ và bên kia chữ. Bất kỳ ai sống được cái tịch lặng trong từng chữ và bên kia chữ, đó chính là giải thoát, vì từng khoảnh khắc đó đã là bờ kia, là xa lìa tham sân si. Bạn có thể thử nghiệm thế này: bạn ngồi làm thơ, với một tờ giấy và cây bút đặt trên bàn, nghĩ tới một ý thơ hiện ra ngoài cửa sổ, thí dụ gió ngoài vườn thổi bay nghiêng làn mưa bụi, hay ánh trăng ló ra ngoài cửa sổ. Nếu không thấy ý thơ nào, bạn có thể nghĩ tới viết xuống giấy vài câu trong Bát Nhã Tâm Kinh. Bạn viết từng chữ nghĩ tới, và cảm nhận rằng cái-gọi-là-bạn đang chết đi theo dòng mực hiện ra lên trang giấy, bạn nghĩ rằng tim bạn sẽ ngừng đập ngay khi ngòi bút nhấc lên để ghi chữ khác. Như thế, bảo đảm rằng bạn sẽ kinh nghiệm được cái tịch lặng đang ngấm vào mắt tai mũi lưỡi thân ý và cũng ngấm trọn khắp ba cõi sáu đường. Đó cũng là Thiền.

Một nhà thơ Nhật Bản cũng ưa thích tịch lặng là Thiền sư Ryokan (1758 – 1831). Ryokan ra đời trong năm 1758, tại ngôi làng hẻo lánh ven biển Izumozaki, thuộc tỉnh Echigo, bây giờ gọi là Quận Niigata. Vùng này, Honshu phương bắc, còn đuợc gọi là “xứ tuyết,” nơi các trận tuyết mùa đông dày ngập tới nổi buộc cư dân phải rời nhà và vào lại nhà họ bằng tầng [lầu] thứ nhì. Quận cũng khét tiếng về một số trận động đất tệ hại nhất trong lịch sử Nhật Bản, và nổi tiếng với hòn đảo Sado dễ thương, nơi lưu đày loạn quân và là nơi có những mỏ vàng được các tướng quân khai thác. Cha của Ryokan, Inan (1738—95), là người được kế thừa cha truyền con nối làm trưởng làng, và là một tu sĩ Thần Đạo. Inan cũng là một nhà thơ mà vài người ghi nhận là có liên hệ xa với trường phái thơ hài cú Basho.

Ryokan làm sa di ở Kosho-ji, ngôi chùa Thiền Tào Động địa phương, trong nhiều năm. Khoảng năm 1780, thiền sư Kokusen (viên tịch 1791) viếng thăm Kosho-ji, và Ryokan, người cảm xúc thâm sâu vì cách sống nghiêm túc và chân thật của vị thầy, mới xin và được phép để chính thức trở thành môn đệ của Kokusen. Sau đó, họ cùng nhau trở về chùa Entsu-ji, ngôi tự viện của Kokusen tại Tamashima (bây giờ là Quận Okayama). Chùa Entsu-ji chỉ nhỏ thôi, dễ thương, gồm một hồ sen và rừng tre đẹp, nằm trên một ngọn đồi nhìn ra hải cảng Tamashima. (Hầu hết các khu nhà từ thời Ryokan bây giờ vẫn còn.) Tamashima là một trung tâm giao thương thịnh vượng, và chùa Entsu-ji đã lớn dậy dưới hướng dẫn của Kokusen, không bao giờ dưới 40 sư đang tu học. Cũng như vị thầy Kaso của Ikkyu, và vị thầy Shoju của Hakuin, Kokusen là một vị thầy có lối dạy cụ thể, người tuyên bố kiều Thiền của mình gồm cả việc “khiêng đá và đổ đất.” Nghĩa là, tu Thiền phải thực hiện ngay giữa các việc làm hàng ngày trong đời thường.

Với cương vị người nối pháp của Kokusen, một trong những vị Thiền sư Tào Động lớn nhất lúc đó, Ryokan có thể dễ dàng giữ chức trụ trì một chùa lớn, nhưng những năm tự nguyện sống khó nghèo và tự do trên các cánh đồng đã làm cho sư không thích bị ràng buộc với gánh nặng ngôi chùa. Không kế hoạch cụ thể nào trong đầu, Ryokan năm 40 tuổi về lại nơi mình ra đời, dọc đường vui với những nơi có cảnh đẹp và các nơi linh thiêng của Nhật Bản. Một lần, một tên trộm nhầm lẫn vào am Gogo-an, nhưng dĩ nhiên không thấy gì giá trị. Thất vọng, tên trộm mới lấy chiếc mền cũ và tả tơi và chiếc bồ đoàn thiền tọa của sư. Khi Ryokan về lại căn lều, thấy chuyện xảy ra mới viết bài thơ hài cú sau:

Tên trộm để lại phía sau—
mặt trăng
nơi cửa sổ.

Là một ẩn tu, Ryokan ngồi trên thiền sàng và sống nhiều phần hệt như các vị tổ sư Thiền xa xưa, tìm giác ngộ sâu trong các rặng núi. Sau đây là một bài thơ Ryokan tự ghi lại về nếp sống của ngài, ngồi tịch lặng, xài tiền của mục đồng (chăn trâu), làm bạn với ánh trăng.

Trong vắng lặng, bên cửa sổ trống
Ta ngồi thiền tọa, mặc phẩm phục trang nghiêm,
rún và mũi thẳng đường, tai song song với vai
Ánh trăng ngập cả phòng;
mưa đã ngưng, nhưng mái hiên còn nhỏ giọt.
Toàn hảo giây phút này—
trong tánh không vô tận, hiểu biết ta thẳm sâu.
.
Vào đêm, sâu trong núi, ta ngồi thiền
chuyện nhân gian không bao giờ tới đây;
tất cả đều vắng lặng và rỗng rang,
nhang đã tàn trong đêm vô tận
áo ta đã đẫm sương.
Không ngủ được, ta bước vào rừng—
đột nhiên, trên đỉnh cao, trăng tròn hiện.
.
Đời ta nghèo, nhưng tâm ta sáng tỏ
khi ta qua, ngày lại ngày
trong lều cỏ này.
.
Như dòng suối nhỏ len lỏi qua
các vách núi rêu, ta cũng lặng lẽ
trở thành sáng tỏ và trong trẻo.
.
Khi các niệm đã vắng cả rồi
ta lẩn vào rừng pháp và gom nhặt
một xấp tiền của mục đồng.
.
Rách rưới và tả tơi, rách rưới và tả tơi
rách rưới và tả tơi là đời này.
Lương thực? Rau cỏ dại bên đường.
những bụi cây mọc quanh lều ta.
trăng và ta thường ngồi chung cả đêm,
Và hơn một lần, ta đi lạc giữa rừng hoa dại,
quên lối về nhà.
Không ngạc nhiên gì, ta rời khỏi chúng:
làm sao một ông sư khùng như thế sống trong chùa?
              ----
RYOKAN (1758 – 1831)

.

Làm thế nào bước vào cõi tịch lặng? Đọc kỹ Kinh Phật, chúng ta sẽ thấy rất nhiều khi, Đức Phật chỉ nói có một lời thôi. Không nói nhiều, tất cả pháp đều đưa về một chữ thôi. Thí dụ, như Kinh Bahiya, tất cả các pháp tóm gọn về một chữ Như. Trong một chữ Như đã có sẵn đủ giới, định, huệ. Thí dụ khác, như với một số kinh trong Kinh Tập, phẩm Qua Bờ Kia, tất cả các pháp tóm gọn về một chữ Không. Trong cái nhìn của rỗng rang vô tướng, tất cả giới, định, huệ đã sẵn đủ, tròn đầy. Ngay cả khi chúng ta đứng ở một góc rừng, với mưa gào, gió thét, chúng ta vẫn thấy cái tịch lặng bao trùm tất cả và thấy tâm mình là Như, là Không.

Trong tận cùng của Phật Giáo, tịch lặng là nơi không thấy có một pháp nào để nương tựa. Đó cũng là khi Huệ Năng (638-713) dạy Huệ Minh rằng khi tâm rời các duyên (tức là: không dựa vào những cái được thấy, được nghe…), khi tâm không sanh một niệm (tức là: không một chữ nào dấy lên trong tâm), khi tâm không nghĩ thiện hay ác (cũng là: không nghĩ có/không, lành/dữ, ta/người…), thì sẽ hiện ra cái bao trùm và xuyên suốt hết tất cả lời và không-lời, ngôn và vô-ngôn, thanh và vô-thanh, và đó là cái tịch lặng vô cùng sâu thẳm. Độc giả có thể kinh nghiệm được, hãy cứ thử đơn giản như thế.

Trong Kinh Pháp Bảo Đản, bản dịch của Thầy Duy Lực, trích:

Huệ Minh đảnh lễ nói rằng: Mong hành giả vì tôi thuyết Pháp. Huệ Năng nói:Ông đã vì Pháp mà đến đây, thì nên ngưng nghỉ các duyên, chớ sanh một niệm, ta sẽ vì ông mà thuyết.

Một hồi sau Huệ Năng nói: Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đang khi ấy cái nào là bổn lai diện mục của Thượng Tọa Minh? Huệ Minh ngay đó đại ngộ.
” (Phẩm Tựa Thứ Nhất)

Đối với Phật Giáo Tây Tạng, cửa vào tịch lặng là Sáu Lời Dạy của Đại sư Tilopa (988–1069) dạy cho Naropa. Còn gọi là sáu chữ của Mahamudra, Đại Thủ Ấn. Bản văn tiếng Sanskrit chỉ có 6 chữ, dịch sang tiếng Anh hay Việt cho rõ nghĩa sẽ là 6 câu ngắn.

Bản tiếng Anh của Ken McLeod là: “Don’t recall. Don’t imagine. Don’t think. Don’t examine. Don’t control. Rest.”

Có thể dịch ra tiếng Việt là: “Đừng gợi nhớ. Đừng tưởng tượng. Đừng suy nghĩ. Đừng khảo sát. Đừng kiểm soát. Hãy an nghỉ tự nhiên.”

Sáu lời dạy trên còn được dịch giả trên giải thích rõ hơn, có thể dịch ra tiếng Việt như sau: “Hãy buông bỏ những gì đã qua. Hãy buông bỏ những gì có thể sẽ tới. Hãy buông bỏ những gì đang xảy ra bây giờ. Đừng luận giải bất cứ gì. Đừng tìm cách làm bất cứ gì để xảy ra. Hãy buông thư, bây giờ, và an nghỉ.”

Và như thế, chúng ta sẽ thấy đúng là Kinh Nhật Tụng Sơ Thời, tức là các bản kinh chư tăng tụng hàng ngày trong các năm đầu Đức Phật hoằng pháp. Ngay khi nào bạn thực hiện 6 chữ như thế, cái tịch lặng vô ngôn sẽ hiện ra. Hãy giữ tâm như thế trọn ngày, sáng trưa chiều tối, không cần ngồi theo thời khóa nào.

Đúng vậy, cái tịch lặng thực sự không ở đâu xa. Trong Tăng Nhất A Hàm, Kinh EA 31.6, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng, có lời Đức Phật dạy:

“Xóm vắng là sáu xứ bên trong. Thế nào là sáu? Đó là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Nếu người có trí tuệ, khi quán mắt, thấy thảy đều trống không, không chỗ gì, hư dối, vắng lặng, không bền chắc. Khi quán tai, mũi, miệng, thân, ý, thấy đều trống không, đều rỗng lặng, cũng không bền chắc."

.

Một nhà thơ Nhật Bản khác cũng ưa thích viết về tịch lặng là Jakushitsu Genkō (1290-1367). Jakushitsu là một nhà sư dòng Lâm Tế (Rinzai), cũng nổi tiếng là một nghệ sĩ với tài làm thơ, thổi sáo, và là trụ trì ngôi chùa Eigen-ji, nơi được xây lên để dâng cúng cho sư làm nơi dạy Thiền. Sinh trong một gia đình quý tộc, xuất gia năm 12 tuổi tại tu viện Tofukuji ở Kyoto, nơi nổi tiếng về giáo dục; những năm đầu ở đây, nhà sư trẻ học về Nho Giáo và Thiên Thai Tông, một hệ thống lý luận của Phật Giáo. Trong một chuyến tới thăm Tanakami, một thị trấn trong tỉnh Go (bây giờ có tên là tỉnh Shiga), Jakushitsu nhìn thấy một nhà sư đang lặng lẽ ngồi thiền. Hình ảnh lặng lẽ ngồi thiền của nhà sư lạ kia có sức lôi cuốn bí mật. Ngồi thiền lặng lẽ không phải là một phần trong pháp tu hàng ngày tại ngôi chùa Jakushitsu đang theo học, nơi chủ yếu đào tạo các giảng sư và luận sư Phật Giáo.

Được giới thiệu từ một vị sư đồng học ở Tofukuji, Jakushitsu biết về Thiền sư Yakuo Kenko, người từng theo học với Lan-chi Tao-lung (tiếng Nhật là: Rankei Doryu) một Thiền sư Trung Hoa từ Szechuan tới Nhật Bản năm 1246 để truyền pháp Thiền Tông. Jakushitsu cùng với bạn đồng học lên đường tới Zenkoji, ngôi chùa tại Kamakura, nơi Yakuo lúc đó đang cư ngụ. Truyền thuyêt kể rằng vào đêm trước khi Jakushitsu tới Zenkoji, Thiền sư Yakuo có một giấc mơ, trong đó “nhiều vị thánh đáp xuống và một vùng ánh sáng hiện ra chiếu rọi khắp núi và sông.” Do vậy, Yahuo mới đặt tên cho Jakushitsu là Genko, tức là “Ánh sáng nguyên khởi.”

Jakushitsu thân cận với Thầy Yakuo cho tới khi Yakuo từ trần năm 1320. Jakushitsu sang Trung Quốc để tìm học Thiền trong thời gian từ 1320 tới 1326, với vị Thầy có hạnh ẩn tu nổi tiếng là Ming-pen. Khi về lại Nhật Bản, Jakushitsu vào núi, sống nhiều năm trong hạnh ẩn tu. Phong thái kỳ dị, và những bài thơ đầy sức mạnh của Thiền đã làm cho nhà sư Jakushitsu nổi tiếng. Một vị lãnh chúa địa phương mời sư ra dạy Thiền cho công chúng, xây ngôi chùa có tên là Eigen-ji và Jakushitsu là vị trụ trì đầu tiên nơi đây.

Mấy dòng thơ sau đây là Jakushitsu tự viết về bản thân:

Cô tịch
vui hỷ lạc
tóc trắng nhìn núi xanh.

Một bài thơ khác, cũng do Jakushitsu tự viết về hạnh sống trong các rặng núi. Dịch như sau.

Không tìm danh vọng
không màng khó nghèo
sống ẩn sâu trong núi
xa lìa bụi thế gian
năm hết rồi, bầu trời lạnh
ai sẽ làm bạn với ta?
Hoa đào nở trên cành mới
tắm trong ánh trăng.

.

Trong khi đó, có những bài thơ rất cổ, có từ 2500 năm về trước, ngợi ca hạnh tịch lặng, một trong các phẩm chất của người ngộ đạo. Bài thơ của Trưởng lão ni Sona có ký số Thig 5.8, trích dịch như sau:

Tôi thiền tư về vô tướng
với nhất tâm và tịch lặng
tức khắc giải thoát thành tựu
Niết bàn, không gì nắm giữ
.
Hiểu trọn năm uẩn thấu suốt
tuy còn đây, rễ đã cắt
Bà già bất hạnh, thân tôi
chuyện tái sanh đã hết rồi
.
.

Tuy nhiên. Tịch lặng không chỉ là ngồi thiền. Một bài thơ của Trưởng lão tăng Bhagu trong bài kệ có ký số Thag 4.2, ghi rằng đại sư Bhagu ngồi thiền, gặp cơn buồn ngủ, mới bước ra khỏi lều, đi kinh hành, khi bước đi, bị vấp té, rồi đứng dậy phủi bụi, rồi đi tiếp, niềm tịch lặng khởi lên trong khi đại sư bước tới bước lui, và rồi tâm đạt giải thoát, chứng tam minh. Bài thơ kể về niềm tịch lặng đạt được trong khi bước đi, trích như sau.

Buồn ngủ, tôi rời tịnh xá
bước thiền hành, chân vấp ngã
Phủi bụi xong, bước đi tiếp
lối thiền hành, tới rồi lui
tịch lặng sâu thẳm trong tôi.
Hốt nhiên chứng ngộ ngập tràn
thấy rõ ba cõi hiểm nguy
vững vàng với tâm viễn ly
Hiển lộ trong tâm giải thoát
thấy rõ tối thượng giáo pháp
Tam minh bây giờ hoàn tất
trọn vẹn như lời Đức Phật.

Tịch lặng, đẹp là như thế, hiện ra ngay ở nơi bạn đi đứng nằm ngồi, ngay ở nơi bạn chọn chữ làm thơ, ngay ở nơi sâu thẳm trong tâm và ngập tràn khắp thế giới này. Tịch lặng là Niết Bàn. Hãy lắng nghe tịch lặng, hãy tắm gội trong tịch lặng, hãy thấy tịch lặng đang ngấm vào núi đá, vào cây rừng, vào khắp không gian và khắp mắt tai mũi lưỡi thân ý của mình.  Nó đó. Vô tướng, không hình dạng, không màu sắc. Tịch lặng không phải là cái được tạo ra, nhưng là cái có sẵn chưa hề rời chúng ta, ngay ở đây và bây giờ.

 

PHOTO:

 Cội nguồn thơ nơi vô cùng tịch lặng-RyokanCội nguồn thơ nơi vô cùng tịch lặng-Jakushitsu_GenkoCội nguồn thơ nơi vô cùng tịch lặng-Huineng Hue NangCội nguồn thơ nơi vô cùng tịch lặng-basho




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2021(Xem: 4806)
Qua Covid-19, đến biến thể Delta, hoành hành khốc liệt, đã “minh bạch” nhiều vấn đề, khiến cho toàn thế giới suốt hai năm (2020-2021) phải chịu nhiều khủng hoảng về nhiều mặt và đầy hoang mang lo sợ. Các nhà khoa học cũng phải cuốn cuồng nghiên cứu, thử nghiệm, các nhà lảnh đạo hàng đầu thế giới với binh hùng tướng mạnh, tiện nghi vật chất hiện đại, thực hiện nhiều biện pháp, nhưng cũng chưa có gì khả quan, hữu hiệu, để ngăn ngừa dịch bệnh, mà phải thực hiện với một “thông điệp” được lặp đi lặp lại: “Bịt miệng, thường rửa tay và ở yên một chỗ” thì mới mong được an ổn. Cách đây hơn 26 thế kỷ, sau khi chứng ngộ dưới gốc cây Bồ Đề tại Bodh Gaya, Đức Phật đã biết, nhìn thấy và hiểu tận tường sự vận hành của vũ trụ, nên bài Pháp đầu tiên tại Vườn Lộc Uyển là Tứ Diệu Đế (TDĐ) (Khổ - Tập - Diệt – Đạo) đã nói rõ lên được thực tế của “trần gian” chúng ta. TDĐ chỉ rõ sự thật về cuộc sống khổ đau của con người, về nguồn gốc nguyên nhân dẫn đến đau khổ, về sự chấm dứt đau khổ và phương pháp t
12/09/2021(Xem: 6138)
LUẬN ĐIỂN CỦA ATISHA súc tích nhưng bao hàm rộng rãi đem những vấn đề cốt yếu đến với nhau của những giáo huấn của ba lần Chuyển Pháp Luân, như đưa ra một cách tóm tắt trong chương hai. Nó được sáng tác ở Tây Tạng bởi một đạo sư Ấn Độ là Atisha Dipamkara theo lời thỉnh cầu của Jhangchup Wö, sau đó là người cai trị miền tây Tây Tạng. Jhangchup Wö đặc biệt thỉnh cầu một giáo huấn thật sự nổi tiếng vì sự thậm thâm của nó cũng như trong sáng của nó, vì thế nó có thể làm lợi lạc cho dân tộc Tây Tạng nói chung. Atisha súc động sâu xa và hoan hỉ vì sự chân thành thỉnh cầu của Jhangchup Wö, và đáp ứng lời thỉnh cầu ấy ngài đã sáng tác ra luận điển súc tích này.
10/09/2021(Xem: 7863)
Thưa quý vị, Con virus corona đang khiến cả thế giới hoảng loạn chao đảo. Nhưng Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus... Mỗi ngày, con virus lần lượt phơi bày tất cả sự thật mà chúng ta từ lâu đã không có khả năng nhìn thấy hoặc cố tình quên đi. Mỗi ngày, nếu để ý, ta sẽ thấy mỗi diễn biến của nó đều điểm vào những sai trái mà con người đã bày ra khi đến thế giới này. Nó bóc trần lần lượt những dối trá, vốn luôn được che đậy kỹ càng. Giờ đây con người nhận ra không có gì dấu giếm được dưới ánh mặt trời.
08/09/2021(Xem: 6560)
Hành trình 10 năm ăn thuần chay của giáo viên trường tiểu học Luo Yuliang (小學羅裕良), nhằm mong muốn việc sinh nở của vợ được suôn sẻ. Thường nhật tại tư gia, đến bữa ăn vợ chồng thầy giáo luôn "Bên mâm cơm chay" (鍋邊素), cho đến khi cơ hội cho ba đứa trẻ cắp sách đến trường, chúng cũng được cung cấp các bữa ăn chay. Sau đó, đã mở ra một phong trào mới cho gia đình 5 nhân khẩu đều ăn hoàn toàn thuần chay.
06/09/2021(Xem: 5703)
Nữ cư sĩ Mazie Keiko Hirono Thượng nghị sĩ Phật tử đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ Nữ cư sĩ Mazie Keiko Hirono Thượng nghị sĩ Phật tử đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ 1Hình 1: Cư sĩ Phật tử Mazie Keiko Hirono thời còn là cô bé với mẹ, tỉnh Fukushima, Nhật Bản, vào khoảng năm 1949. Ảnh: Mazie Hirono Đây là tự truyện do Nữ cư sĩ Mazie Keiko Hirono Thượng nghị sĩ Phật tử đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ kể rằng: "Được đặc ân và trách nhiệm khi tôi phục vụ người dân Hawaii tại Thượng viện Hoa Kỳ. Là một người nhập cư và trưởng thành trong hoàn cảnh khó khăn, tôi chưa từng bao giờ cảm nghĩ, đối với con đường quan lộ đến Thượng viện Hoa Kỳ. Đồng thời, những kinh nghiệm của tôi cho thấy những cơ hội có sẵn đáng kinh ngạc ở Mỹ, và thúc đẩy tôi mong muốn được đền đáp.
04/09/2021(Xem: 25226)
Thiền Sư Khánh Hỷ (1066- 1142) Đời thứ 14 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi Một vị Tăng Thống thời Vua Lý Thần Tông Đây là Thời Pháp Thoại thứ 281 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Bảy, 04/09/2021 (28/07/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 01:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 11:45pm (giờ Paris, France) - 03:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
02/09/2021(Xem: 4881)
Lại một quyển sách khác nữa được điểm, để giới thiệu đến với mọi người, nhất là những người ít có thời gian để đọc một quyển sách dày mấy trăm trang, thì đây là một bài giới thiệu tóm tắt về tác giả và tác phẩm. Sách dày 360 trang, nhưng nếu in hai mặt thì số trang chỉ bằng một nửa mà thôi. Bởi lẽ khi Lotus Media ở Hoa Kỳ tái bản năm 2020 do Uyên Nguyên trình bày, muốn làm cho quyển sách dịch ra Việt ngữ của Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải trang trọng hơn, để tỏ lòng với người đã khuất, cũng như muốn cho độc giả thâm nhập sâu hơn với ngôn ngữ của Thiền, nên mới cho chúng ta nhiều không gian thoáng mát như vậy, để khi đọc và khi gấp sách lại tư duy những lời dạy ngắn gọn, rất dễ hiểu của Thiền Sư Bankei Yotaku một cách sâu sắc hơn nữa.
02/09/2021(Xem: 5204)
Chánh là ngay thẳng. Tư (思) và Duy (惟) đều thuộc bộ tâm. Tư duy là quá trình vận hành của não bộ giúp con người suy nghĩ, xem xét, giải quyết những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Chánh Tư duy là suy nghĩ, xem xét, giải quyết đúng vấn đề. Người có chánh tư duy dễ dàng thực hiện thành công mục tiêu lý tưởng của mình. Hành trì chánh tư duy luôn đem lại chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, bởi tư duy là cơ bản của lời nói và của hành động
02/09/2021(Xem: 5450)
Phần này (32B) bổ túc cho bài viết “Tiếng Việt từ TK 17: nên mười tuổi và nên hoa” (phần 32) về hai cách dùng bình lang (tân lang, cây cau) và (đảo) Côn Lôn/Côn Nôn. Các dữ kiện cho thấy khuynh hướng lẫn lộn n và l đã từng xẩy ra cho đến ngày hôm nay. Trong tuần lễ soạn phần bổ túc (giữa tháng 8 năm 2021), người viết (Nguyễn Cung Thông/NCT) còn thấy trên các mạng truyền thông hiện tượng lẫn lộn n và l như trong các utube ở phần sau. Hi vọng loạt bài viết này là động lực cho người đọc tìm hiểu sâu xa hơn và khám phá nhiều điều thú vị về tiếng Việt phong phú của chúng ta.
02/09/2021(Xem: 5511)
PERRIS, California – Chùa Hương Sen hôm Chủ Nhật 29/8/2021 đã đón nhận 28 thùng kinh và sách Phật học để sẽ lưu giữ tại thư viện tương lai sắp xây của chùa. Trong đó, 20 thùng kinh và sách là từ Cư sĩ Tâm Diệu và nhóm bạn đạo Thư Viện Hoa Sen, 8 thùng kinh và sách là từ Cư sĩ Nguyên Giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]