Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, nhà Sưu tập Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng

10/12/202016:35(Xem: 3587)
Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, nhà Sưu tập Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, nhà Sưu tập Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng

(1887-1948)

 Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais 1

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais sinh năm 1887 tại Cincinnati, thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ. Thân phụ của bà là cụ ông John Coblentz và mẫu thân là cụ bà Margaret Norman Coblentz. Vốn mồ côi cha từ thuở ấu thơ, mẹ phải vất vả đùm bộc trong cảnh gà mái nuôi con; Jacques Marchais đã đến các trại mồ côi và các mái ấm khác nhau trong suốt thời thơ ấu, và tuổi thanh xuân 16, bà đã trở thành diễn viên tham gia vào một bộ phim Boston Peggy From Paris, nơi bà gặp người chồng đầu tiên Brookings Montgomery. Bà sinh được ba người con, hai gái Edna May và Jayne, và con trai, Brookings.

 

Bà bắt đầu sự nghiệp tại Chicago, trong một diễn viên nhí khi năm lên 3 tuổi, với tên gọi diễn viên  Edna Coblentz hoặc Edna Norman (họ của mẹ), cả hai tên gọi mà hiền mẫu của bà cho là phù hợp hơn với sự nghiệp diễn viên trên sân khấu. Hiền mẫu của bà đã đưa bé gái yêu quý lên sân khấu vì vấn đề tài chính. Diễn viên nhí, Jacques Marchais đã trình diễn trong những vỡ kịch khá đáng chú ý vào thời điểm bấy giờ (như các vỡ diễn “Lời nói dối trắng trợn” “Trận đấu hiện đại” tại Nhà hát Shiller). Diễn viên nhí, Jacques Marchais cũng đã từng được mời đến tư gia của những gia đình giàu có ở Chicago để biểu diễn độc tấu (trong đó có tên trùm tội phạm Mike McDonald), những gia đình khá giả này đã trả tiền học phí cho Diễn viên nhí, Jacques Marchais.

 

Tuổi thiếu nữ xuân sắc nước hương trời (16), nữ nghệ sĩ Jacques Marchais đến Boston, trong một vỡ kịch của George Ade (1866-1944), một nhà viết kịch nổi tiếng nhất ở Mỹ vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.

 

Năm 1916, bà chuyển đến thành phố New York để hỗ trợ mình như một diễn viên, và tiếp tục sử dụng tên diễn viên Jacques Marchais.

 Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais 2

Trong bối cảnh chiến tranh và khủng hoảng của nền văn minh phương Tây, nhiều trí thức Mỹ đã quan tâm đến văn hóa và Thông thiên học phương Đông. Khi nữ nghệ sĩ Jacques Marchais chuyển đến New York vào năm 1916 để theo đuổi sự nghiệp diễn viên nghệ thuật sân khấu, bà đã tham gia vào một nhóm xã hội gồm các nghệ sĩ, du khách, học giả, nhà khoa học và quý tộc, những người đều tò mò về tâm linh châu Á và Phật giáo. Do đó, nữ nghệ sĩ Jacques Marchais có thể nói là một trong những người tham gia tích cực đầu tiên trong lịch sử sơ khai của Phật giáo Hoa Kỳ.

 

Thời gian sống tại thành phố New York, Hoa Kỳ,  bà thường giao lưu với nhiều bạn bè, chia sẻ mối quan tâm chung trong nghệ thuật, tâm linh Phật giáo.

 

Năm 1920, bà thêm một lần kết hôn với chàng Harry Klauber (1885-1948), một doanh nhân người Brooklyn trong ngành hóa chất. Doanh nhân Harry Klauber và nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais chuyển đến đảo Staten vào năm 1921, định cư ở Lighthouse Hill, theo nhật ký của bà, họ có thể có “một nông trại trong khoảng cách đi lại Manhattan, một quận của thành phố New York” và bà bắt đầu sưu tầm nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng.

 

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, một trong những nhà sưu tập đầu tiên về Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng tại Hoa Kỳ. Bà đã viết trên tạp chí rằng, lần đầu tiên của mình khi được tiếp xúc với bất cứ điều gì là Phật giáo Tây Tạng, một bộ sưu tập các pho tượng nhỏ bằng đồng, miêu tả vị thần hộ pháp, đã được lưu truyền từ đời ông cố của bà, John Joseph Norman, một thương gia từ Philadelphia người đã tích cực trong việc buôn bán trà. Là một cô gái trẻ, bà đã chơi với các bức tượng nhỏ như thể chúng là đồ chơi.

 Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais 3

Sau khi mẫu thân của bà đã qua đời vào năm 1927, bà đã khám phá ra những pho tượng nhỏ trong số đồ đạc của mẫu thân, và đã thúc đẩy và khám phá sâu hơn về ý nghĩa của những pho tượng này. Và đã dẫn bà đến việc “Nghiên cứu sâu và nghiên cứu liên tục”, trong “Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng- Đất nước – Con người và Tôn giáo của họ”.

 

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đã phát triển mối quan hệ này với văn hóa Phật giáo Tây Tạng vào cuối những năm 1920, và nghiên cứu kỹ lưỡng tất cả những gì bà có thể làm được. Bà tin rằng “Ít nhiều hoạt động như nam châm trong việc vẽ các vị thần Hộ pháp, chư vị Bồ tát và Phật Đông Ấn Độ và Tây Tạng cũng như các pháp khí theo nghi thức Phật giáo”. Sau khi xem một cuộc triển lãm dành cho Cung điện Potala (tọa lạc tại Lhasa, khu tự trị Tây Tạng, đã từng là nơi ngự của các đời Đạt Lai Lạt Ma), tại Triển lãm Quốc tế Thế kỷ 1933 tại Chicago, Hoa Kỳ, bà đã trở thành nhân vật đặc biệt là cảm hứng để tăng cường bộ sưu tập các hiện vật văn hóa nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng của bà và chia sẻ kiến thức của bà với thế giới.

 

Năm 1938, bà mở Phòng Trưng bày Jacques Marchais, để trưng bày nghệ thuật Phật giáo từ những nền văn hóa tương đối chưa được biết đến ở Đông Ấn Độ và Tây Tạng. Bộ sưu tập này trải dài từ các tác phẩm nghệ thuật tranh Thangkas trên tường hoành tráng, đến đồ trang trí nội thất chạm trổ bằng gỗ và ánh sáng đồ đạc. Tượng và tác phẩm điêu khắc xếp hàng trên kệ, như bà đã tự hào giới thiệu mua lại của mình cho các nhóm cá nhân. Nhiều trong số hiện vật này chỉ có sẵn cho những người thu mua như bà từ những năm 1911 đến 1950, do hoạt động chính trị được tăng cường trong khu vực. Bà muốn gây ảnh hưởng đến nhân loại trên quy mô lớn hơn và sử dụng Thư viện làm “bước đệm” để xây dựng Bảo tàng Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng.

 

Mặc dù bà không bao giờ đi du lịch đến Tây Tạng, bà đã mua các vật dụng thông thường qua đấu giá, và bán bất động sản. Bà thường giữ những tác phẩm tốt nhất cho bản thân, và bán các đồ vật khác trong phòng trưng bày như một phương tiện khác để liên tục xây dựng bộ sưu tập của mình. Bà đã cam kết chia sẻ kiến thức của mình về Phật giáo Tây Tạng với thế giới.

 

Trong suốt cuộc đời của Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, đã sưu tập hơn một nghìn cổ vật. Bộ sưu tập này bao gồm các tác phẩm điêu khắc, pháp khí nghi lễ, nhạc cụ Phật giáo, thangka hoặc tranh cuộn và đồ trang trí nộ thất. Các vật thể chủ yếu từ Tây Tạng, Nepal, Bắc Trung Quốc và Mông Cổ, và một vài vật phẩm đến từ Đông Nam Á.

 Bảo tàng Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng Jacques Marchais 1

Trong một bức thư gửi Thượng nghị sĩ Edward E. Denison của Mairon vào ngày 02/06/1939, Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đã viết: “Là một học sinh có triết học phương Đông, và đã quen với các tôn giáo phương Đông. Tôi sớm nhận ra  rằng, tôi đã hành động ít nhiều như một nam châm trong việc vẽ các vị Thần Hộ pháp, chư Phật, Bồ tát Đông Ấn Độ và Tây Tạng và các đối tượng với tôi trong nghi thức”.

 

Bảo tàng Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng Jacques Marchais được bao quanh với các khu vườn bậc thang, với một ao Liên trì (hoa sen), cá cảnh bơi lội tung tăng, đêm trăng gió mát từng bước chân thanh thản nhẹ bước an lạc kinh hành sau khi tọa thiền. Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đặt tên phong cảnh của mình là khu vườn Thiền định (samātha bhāvanā). Các tòa nhà được thiết kế cảnh quan đã tạo ra một môi trường mang tính nghệ thuật Phật giáo. Khi Bảo tàng Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng Jacques Marchais chính thức khai trương vào ngày 05/10/1947, sự kiện này đã được đăng trong tạp chí LIFE.

 

Cả đời gắn bó với nghệ thuật điển ảnh thuận theo thế gian, với đạo pháp bà đã say mê trong nghệ thuật Phật giáo, tứ đại đến hồi suy yếu, thuận thế vô thường, bà đã thanh thản trút hơi thở về với cõi Phật vào tháng 02 năm 1948, chỉ bốn tháng sau khi khai trương bảo tàng. Công đức viên mãn của bà với một bộ sưu tập hoành tráng, nhấn mạnh đến giá trị văn hóa nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng.

 

Khi chính trị toàn cầu đưa Tây Tạng xa xỉ vào thế giới vào đầu thế kỷ 20, điều này đã thúc đẩy sự quan tâm của phương Tây vào văn hóa Tây Tạng. Ý tưởng lãng mạn của Tây Tạng – một nơi nào đó có một nền văn hóa dựa trên tinh thần giác ngộ chứ không phải là sản xuất công nghiệp hoặc mở rộng thuộc địa – đã thu hút được nhiều người không biết đến ở phương Tây, đặc biệt là những sự tàn phá vào Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ II.

 

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đã tiên phong trong thời gian của mình để nhận ra giá trị của văn hóa Tây Tạng đối với kho tàng kiến thức của con người, và bà đã thực hiện tuyệt vời về khát vọng của mình rằng: “Nếu tôi có thể cho thế giới cái gì đó nâng cao và sự giúp đỡ chân thành, Tôi luôn sẵn sàng”.

 

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đã đóng góp đáng kể cho sự quan tâm ngày càng tăng đối với nghệ thuật Hy Mã Lạp Sơn và triết học Phật giáo ở Hoa Kỳ trong đầu thế kỷ 20, với mục tiêu chung là mở rộng đối thoại giữa các nền văn hóa, như một phương tiện để phát triển từ bi tâm và hòa bình thế giới.

 

Sự nỗ lực của Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, từ những thập niên 1921 đến 1948, tham gia hoạt động văn hóa nghệ thuật Phật giáo, tạo thành một bộ sưu tập nghệ thuật Himalayan, và xây dựng một phiên bản thu hẹp của Cung điện Potala của thủ đô Lhasa, là một phản ánh sâu sắc của giai đoạn quốc tế của Phật giáo phương Tây, được đặc trưng bởi những thay đổi và những diễn giải mới, mang lại trong việc thích ứng các giáo lý và thực hành Phật giáo với hiện đại.

 

Có người thắc mắc rằng mối quan hệ của bà với Phật  giáo như thế nào?.

 

Nữ nghệ sĩ Jacques Marchais có phải là một Phật tử không?

 

Vào thời đại của bà, Phật giáo không được coi trọng, và rất ít thông tin về Phật giáo tại Hoa Kỳ. Thông qua cuốn tiểu thuyết “Lost Horizon; Đường Chân trời đã mất” (1933) của nhà văn người Anh Jammes Hilton, mô tả một nơi có sự hòa hợp tuyệt vời, với những bức tranh tuyệt đẹp về vùng đất cao nguyên, Phật giáo Kim Cương thừa, Tây Tạng huyền thoại.

 

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đồng nhất mạnh mẽ với văn hóa Tây Tạng và Phật giáo, nhưng lại không bao giờ công khai mình là một Phật tử. Đúng hơn, bà tỏ ra cởi mở với mọi tôn giáo. Mặc dù muốn Bảo tàng Nghệ thuật Tây Tạng của bà giống như một cơ sở tự viện Phật giáo, nhưng bà không quan niệm đây là nơi để mọi người cải đạo và truyền đạo, đây là nơi để giáo dục họ về văn hóa tâm linh Hy Mã Lạp Sơn. Mục tiêu của bà là cống hiến nhiều hơn vào sự hiểu biết lẫn nhau về văn hóa giữa phương Tây và phương Đông, cũng như sự khoan dung tôn giáo. Tuy nhiên, bà đã bày tỏ niềm tin của bà vào Chánh tín, Chánh kiến Phật giáo.

 

Là một nữ nghệ sĩ Phật tử sinh vào cuối thế kỷ 19, bà đã xoay sở với cuộc sống của riêng mình, và tự hiện thực hóa một ước mơ vào thời bấy giờ, có thể nói là rất hy hữu. Sự tò mò và trí tưởng tượng của bà, cũng như sự nỗ lực học tập nghiêm túc của bà, khiến bà trở thành một trong những người đầu tiên công khai hóa Tây Tạng và Phật giáo ở thế giới phương Tây. Với sự lan tỏa đạo nhiệm mầu và hạnh đức Như Lai, thông qua ánh quang minh từ bi, trí tuệ, hùng lực, tự do bình đẳng đạo Phật tại Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ ngày nay, và về những lý tưởng nhân văn về giao thoa giữa các nền văn hóa sau Đệ nhị Thế chiến, Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais có thể nói là một người có tầm nhìn xa.

Lip video:

 

NYC Traveler - Jacques Marchais Museum of Tibetan Art

https://www.youtube.com/watch?v=ZJwtbPVXfug

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Staten Island NYC Living)

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 6780)
Nhiều người hỏi tôi, Phật tử nghĩ gì về hôn nhân đồng tính? Vâng, vấn đề này tùy thuộc vào đối tượng mà bạn nói đến. Cách đây vài năm, trong cuộc phỏng vấn với hãng CBC, đức Dalai Lama đã bác bỏ quan hệ đồng tính, khiến ngạc nhiều người cải đạo sang đạo Phật ngạc nhiên. Đôi khi, họ quá dễ dãi cho rằng đạo đức Phật giáo là phù hợp với quan điểm tiến bộ tiêu biểu của họ. Khi cuộc phỏng vấn của người Gia-nã-đại được lên mạng internet, vài người bị choáng và bị rối, nhưng quan điểm của đức Dalai Lama đưa ra không làm ngạc nhiên đối với bất cứ ai lưu tâm theo dõi vấn đề này. Rốt cuộc thì lập trường của ngài vẫn trước sau như một. Tại một hội nghị cách đây 12 năm, khi các lãnh đạo đồng tính gặp đức Dalai Lama ở San Francisco để thảo luận vấn đề cấm Phật tử Tây Tạng phản đối việc đồng tính luyến ái, ngài đã nhắc đi nhắc lại quan điểm truyền thống rằng đồng tính luyến ái là “tà hạnh”
18/09/2010(Xem: 11902)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
17/09/2010(Xem: 8667)
Gốc tiếng Phạn của chữ cà-salà kasaya.Nhưng thật sự chữ kasayatrong tiếngPhạn không có nghĩa là áomà có nghĩa là bạc màu, cáu cặnhay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm(màu nhạt), trọchay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sacủa người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèonàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gìvề chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc nhữngđiều vừa nêu trên đây.
10/09/2010(Xem: 51125)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 5416)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựng là vô cùng mạnh mẽ, tại vì chỉ một giây phút tức giận là có thể phá hủy hết công đức của cả một đời người.
07/09/2010(Xem: 6649)
Chúng ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt trời, như cá khát dòng sông êm dịu. Thế nhưng, khi chúng ta đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
04/09/2010(Xem: 9919)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 5887)
Đọc xong những câu chuyện của các phụ nữ ở Hoa Kỳ và kinh nghiệm của các vị đối với đạo Phật, chúng tôi đã rất hoan hỷ và xúc động trước những nhận thức sâu xa của họ về cuộc sống, con người và môi trường chung quanh... Những lời dạy của đức Phật vừa nhiệm màu vừa thực tiễn đến làm sao! Những lời giảng dạy ấy đã chữa lành, loại bỏ những khổ đau và đem lại sự bình an, hạnh phúc đến hàng vạn con người trong nhiều thế kỷ qua. Sau đây là các câu chuyện của những phụ nữ người Hoa Kỳ từ các nguồn gốc khắp nơi trên thế giới. Những câu chuyện về hạnh phúc và sự sống trong tỉnh thức của họ qua sự tu tập và trở về với Đạo Phật. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu và chia xẻ cùng bạn đọc.
02/09/2010(Xem: 5684)
Phiêu linh bao kiếp luân hồi - Phút giây hội ngộ, đời đời khổ đau - Mịt mùng tăm tối lạc nhau- Mang mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
30/08/2010(Xem: 7466)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567