Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo, Tôn giáo, Chính trị và Dân chủ

26/11/202019:05(Xem: 10119)
Phật giáo, Tôn giáo, Chính trị và Dân chủ

Phật giáo, Tôn giáo, Chính trị và Dân chủ

(Agama Buddha dan Politik Demokrasi)

 PhatGiao-ChinhTri-DanChu

“Tinh thần Dân chủ Nhân dân đã trở thành một phần, không thể tách rời trong phạm vi cuộc sống của nhân loại trên hành tinh này. Điều đó có thể nói là đã ngấm vào tận xương tủy của con người. Nhìn từ sự phát triển của một quốc gia, hay một đất nước phát triển, trên nền tảng chính trị do đa số người dân sống ở một vùng, miền nào đó thực hiện”.

 

Sự phát triển chính trị năng động, cho phép một quốc gia phát triển với tốc độ nhanh. Nói đến Dân chủ, chúng ta cần phải hiểu rằng, Dân chủ thực sự mang lại cho con người quyền tự do biểu đạt, bày tỏ ý kiến, quan điểm, ý tưởng, chính quyền do nhân dân lựa chọn, phản ánh sự lựa chọn của nhân dân, nhà nước do nhân dân làm chủ. Mục đích của Dân chủ là đạt được công lý bình đẳng cho tất cả công dân thông qua sự trung thực, bình đẳng và bình đẳng chính trị.

 

Thuyết minh

    (Demos)

 

Từ “Dân chủ” có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ đại. Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên tại Athena, Hy Lạp trong thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch với cụm từ δημοκρατία (‘dimokratia’ (trợ giúp·thông tin), “quyền lực của nhân dân” được ghép từ δήμος (dēmos), “nhân dân” và κράτος (kratos), “quyền lực” vào khoảng giữa thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch để chỉ hệ thống chính trị tồn tại ở một số thành bang Hy Lạp, nổi bật nhất là Anthena sau cuộc nổi dậy của dân chúng vào năm 508 trước Tây lịch.

 

Dân chủ được định nghĩa thêm như "Chính quyền của nhân dân, đặc biệt là: sự thống trị của số đông" hoặc "một chính phủ trong đó quyền lực tối cao được trao cho người dân và thực hiện bởi họ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua một hệ thống đại diện thường liên quan đến việc tổ chức định kỳ các cuộc bầu cử tự do".

 

Theo Mục sư Herry Emerson Fodisck: “Dân chủ dựa trên niềm tin rằng, những người bình thường có những khả năng phi thường”.

 

Nền Dân chủ bắt đầu phát triển ở Hy Lạp vào khoảng năm 450 trước Tây lịch, gần với sự ra đời của Đông cung Thái tử Sĩ Đạt Ta, khoảng hơn 25 thế kỷ trước. Sự khởi đầu của nền dân chủ mà chúng ta thường hiểu hầu hết mọi người đến từ Hy Lạp, điều này đã trở thành một sự hiểu lầm trong cộng đồng rộng lớn hơn.

 

Trong lịch sử, Hy Lạp chỉ thiết kế ý tưởng dưới dạng luật pháp. Các nhà tư tưởng phương Tây như Scorates, Plato và Aristotle đã thảo luận về dân chủ nhưng bác bỏ nó bởi nó được coi là một hình thức chính phủ không phù hợp.

 

Ý tưởng về một nền dân chủ hiện đại dưới hình thức đại diện, đã lan rộng ở Tây Âu trong thế kỷ 19 và 20, và điều này có thể thấy trong nền dân chủ đang phát triển ở châu Âu ngày nay. Bằng chứng như thế chắc chắn là không đầy đủ, nếu những người nghĩ rằng nền dân chủ đến từ phương Tây, theo lịch sử thì mắc phải sai lầm.

 

Nền dân chủ chính trị phi phương Tây đầu tiên được hình thành tại Ấn Độ, tại các Hội đồng Làng (Panchayat) xã, một nơi xa xôi cách đây khoảng 2.300, 2.400 hoặc hơn 2.500 năm trước. Một số người trong số họ phát triển dưới ảnh hưởng của Phật giáo. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, hầu hết các quốc gia ở châu Á đều có chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền và thực dân cho đến thế kỷ 20.

 

Có những điểm gì chung giữa Phật giáo Tôn giáo, Chính trị và Dân chủ?

(Apakah kesamaan buddhis dengan politik demokrasi?)

 

Sự tương đồng giữa Phật giáo và Dân chủ được cảm nhận trong Phật giáo. Giới luật Phật giáo liên quan đến lòng khoan dung, sự tự do tư tưởng, tự do biểu đạt, tự do lựa chọn, bình đẳng, bất bạo động. Mọi tư duy như thế này đều đi  ngược lại với phong tục thời đó của Đức Phật.

 

Đây là những khái niệm mang tính cách mạng được Đức Phật đưa ra cách đây hơn 25 thế kỷ, và tiếp tục được đổi mới theo thời gian. Đây là một phần của cuộc đổi mới trí thức lớn, được một phần lớn xã hội đã trải qua. Tư tưởng Phật giáo vừa có tính chất dân chủ và cụ thể hóa vấn đề.  (Trích từ bài giảng của Giáo sư Ralp Buultjens với chủ đề “Phật giáo, Tôn giáo và Dân chủ” ‘Agama Buddha dan Demokrasi’, đăng trên The Sunday Observer, ngày 15 tháng 7 năm 1990).

 

Cuộc đối đáp giữa Đức Phật và vị thị giả đệ nhất Đa văn A Nan. Điều này được ghi lại trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahàparinibbàna Sutta) (D, ii, 74).

 

Đây chính là bối cảnh có sắc thái chính trị vào những năm cuối cùng của đời sống Đức Phật.

 

Vị Hoàng đế hiếu chiến A Xà Thế đã ban lệnh cho một vị quan đại thần tên Vassakara đến bái yết Đức Phật và báo tin rằng, Đại vương A Xà Thế có ý định xuất quân đi chinh phục lĩnh địa Vajjians.

 

Khi quan đại thần Vassakara nêu lên ý định của Quốc vương và xin Đức Phật từ bi ban kim ngôn khẩu ngọc, Đức Phật quay sang Tôn giả A Nan (đang đứng hầu sau lưng Đức Phật). Đức Phật hỏi An Nan:

 

- Này A Nan! Dân tộc Vajjians có bảy phẩm hạnh trong đời sống thường nhật như thế nào?

 

A Nan liền trả lời:

 

- Bạch Đức Thế Tôn:

 

- Thứ nhất dân chúng bộ tộc Vajjians rất thường hội họp và thảo luận một cách nhất trí mọi vấn đề.

 

- Thứ hai dân chúng Vajjians không bao giờ hủy bỏ những luật lệ cũ.

 

- Thứ ba dân chúng Vajjians thường xuyên nghe lời khuyên nhủ của các bậc lão thành.

 

- Thứ tư dân chúng Vajjians không bao giờ xâm phạm tiết hạnh của phụ nữ.

 

- Thứ năm dân chúng Vajjians luôn luôn tôn trọng những nơi thờ phượng.

 

- Thứ sáu dân chúng Vajjians tiếp tục hiến dâng của cải đến những cơ sở tín ngưỡng.

 

- Thứ bảy dân chúng Vajjians lúc nào cũng sẵn sàng che chở và hộ trì những bậc tu hành chân chính.

 

Chờ A Nan Đa trả lời xong, đức Phật liền phán rằng:

 

- Với bảy đức tính như thế không ai có thể phủ nhận được sự thịnh vượng, hùng mạnh của dân chúng Vajjians.Và bảy đức tính đó trước đây họ đã không có nên họ mới bị suy đồi, nghèo đói. Chính Như Lai đã dạy dỗ cho họ thấm nhuần được bảy phẩm hạnh ấy! một dân như thế là một dân tộc có thể bảo vệ được gia sản, vật chất cũng như tinh thần của họ một cách dễ dàng.

 

Nghe Phật dạy dứt lời, quan đại thần Vasskara cũng khen ngợi rằng:

 

- Không cần phải có đến bảy đức tính như thế! chỉ cần một đức tính thứ nhất mà thôi, cũng đủ làm cho bộ tộc này phát triển mạnh mẽ. Ngày nào dân chúng Vajjians còn tiếp tục có bảy đức tính đó thì ngày ấy họ không thể bị xâm lăng. Ai muốn chinh phục họ phải chờ cho đến khi nào họ chia rẽ và có nội phản.

 

Đoạn quan đại thần ấy kiếu từ đức Phật Với ý định sẽ về tâu lên nhà vua rằng: cử binh đi chinh phục lãnh thổ Vajjians trong lúc này là một điều thất sách.

 

Trong xã hội Ấn Độ thuở bấy giờ, sự tin tưởng vào sức mạnh tinh thần của một sân tộc rất quan trọng. Chỉ cần làm cho một thế lực xâm lăng hiểu rõ điều đó, cũng đủ giúp cho đức Phật ngăn ngừa một cuộc chiến tranh.

 

Cốt lõi

(Inti)

 

Dân chủ là một bộ phận không thể tách rời của đời sống nhân dân. Một quốc gia có thể phát triển rất nhanh bởi hiện tại nó ảnh hưởng nền dân chủ. Sự phát triển của chính trị dân chủ ở mỗi khu vực có chất lượng và số lượng riêng. Bản chất của dân chủ chính trị là phúc lợi của các lợi ích chung, hoặc xã hội nói chung.

 

Thực sự dân chủ là quyền tự do ngôn luận, truyền đạt ý tưởng, tự do tư tưởng, chính quyền do nhân dân bầu, phản ánh sự lựa chọn của nhân dân, nhà nước do nhân dân làm chủ. Mục tiêu của dân chủ chính trị là đạt được công bằng bình đẳng cho mọi người, thông qua sự trung thực, bình đẳng về chính trị. Sự tự do bình đẳng, dân chủ và chính trị như lời giảng dạy của Đức Phật, là thông qua sự khoan dung lẫn nhau, sự tự do tư tưởng, tự do biểu đạt, tự do lựa chọn, bình đẳng, bất bạo động.

 

Tác giả: Cư sĩ Steffi Veronika

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: BuddhaZine)

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/04/2015(Xem: 11072)
Như một làn điện chớp sẹt ngang đầu khi thiên hạ nghe tin khó tưởng, cô Hoa Lan lắm lời vừa phát nguyện Tịnh Khẩu. Vâng, chuyện có thật các bạn ạ! Chẳng những Hoa Lan mà còn cả hơn 50 giới tử tham dự buổi Thọ Bát Quan Trai do thầy Hạnh Bảo hướng dẫn tại chùa Linh Thứu.
06/04/2015(Xem: 9123)
Nghi thức trợ niệm lúc lâm chung trong Phật Giáo được các bậc cao tăng Đại Đức hoằng dương ở Đài Loan đã gần 20 năm nay, dần dần được đón nhận tích cực và phụng trì của quảng đại quần chúng trong xã hội và trong giới Phật Giáo tại Đài Loan. Nghi thức trợ niệm vốn là một phương pháp trợ duyên vãng sinh Tây Phương Cực Lạc trong Tịnh Độ tông, do các vị đại sư Ấn Quang, đại sư Hoằng Nhất cùng các vị cư sĩ đề xướng vào đầu thế kỷ 20. Năm 1951 tại Đài Loan có cư sĩ Lý Bỉnh Nam thành lập “Đài Trung Liên xã”, năm 1986 có hai vị cư sĩ Trí Mẫn và Huệ Hoa tông Viên Giác (được các Phật tử tôn kính xưng là hai vị thượng sư) thành lập Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, đem toàn lực hộ trì và phát dương nghi thức trợ niệm lúc lâm chung. Nghi thức trợ niệm dần dần trở thành pháp môn tu tập phổ biến được quảng đại dân chúng trong xã hội Đài Loan tiếp nhận và hành trì.
06/04/2015(Xem: 19002)
Trong mọi khóa lễ, Chư tăng ni, Phật tử đều cầu xin: “Trú dạ lục thời an lành”. Tức ngày đêm hai mươi bốn tiếng an lành. Nhưng an lành là gì? Chiến tranh không phải an lành.
05/04/2015(Xem: 388366)
Vào ngày 15 tháng 02 năm 2015 tại Như Lai thiền tự, thành phố San Diego, miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ; được sự chứng minh của Đại lão Hòa thượng Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Tăng già Khất sĩ Thế giới Thích Giác Nhiên cùng chư Tôn đức chứng minh, Hòa thượng Bổn sư Thích Minh Hồi đã cắt tóc cầu nguyện và chứng minh cho Phật tử Tâm Hoa, thế danh Võ Elizabeth Bích Liên xin xuất gia, ban pháp hiệu là Liên Ngọc và chỉ dạy cô về tịnh xá Ngọc Vân ở Việt Nam làm lễ thế phát xuất gia.
03/04/2015(Xem: 22779)
Ngọc xá lợi là phần di thể của các vị cao tăng Phật giáo sau hỏa táng. Đó là những hạt kích thước nhỏ, có dạng tròn hoặc các dạng khác. Một số hạt nhỏ có thể trông giống ngọc trai hoặc pha lê, với màu sắc khác nhau. Đó là bảo vật của Phật giáo toàn thế giới, cần lưu ý rằng, tất cả những gì thuộc về Phật tổ và các vị Thánh tăng như y bát, tóc, móng tay... cũng được xem là xá lợi. Dân gian vẫn thường đồn thổi về ngọc xá lợi với thực hư lẫn lộn. Chẳng hạn một vị chân tu 64 tuổi đã ngồi thiền 49 ngày rồi viên tịch tại chùa Vĩnh Bình thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình nên có nhiều xá lợi. Còn ngọc xá lợi của Phật tổ thì có công năng kỳ diệu như phát quang, tự di chuyển hoặc có thể phân ra thành các viên ngọc khác.
02/04/2015(Xem: 12293)
Vào những ngày nghỉ cuối tuần, tôi thường ra một quán cà phê hay tiệm sách gần nhà để ngồi đọc sách. Ở bên này có những tiệm sách lớn, bên trong có hàng bán cà phê với những chiếc bàn nhỏ, chúng ta có thể ngồi uống nước, đọc sách hay viết lách gì cũng được, rất thích và tiện lợi.
01/04/2015(Xem: 9105)
Tôi năm nay 24 tuổi, công việc ổn định và yêu một anh bạn đồng nghiệp, hai chúng tôi dự định ba tháng nữa sẽ làm lễ cưới (lễ hằng thuận) ở chùa. Vừa rồi, tôi đưa anh ấy ra Bắc, nơi chùa chị tôi xuất gia tu học để làm lễ quy y cho anh. Quy y xong, anh được nhà chùa cho tụng kinh, khi tụng xong thì chuyện bất ngờ xảy ra, chồng sắp cưới của tôi xin phép thầy xuất gia. Sự việc xảy ra quá nhanh khiến tôi hết sức bất ngờ, buồn vui lẫn lộn. Nếu anh ấy xuất gia được thì hủy lễ cưới luôn. Thầy bảo sẽ trợ duyên cho anh ấy ở chùa tập sự một năm mới được xuống tóc và gửi đi học. Bây giờ, ngoài việc niệm Bồ-tát Quan Thế Âm ra, tôi chẳng biết làm gì nữa.
31/03/2015(Xem: 9223)
Giới luật và Phẩm Hạnh Huynh Trưởng
31/03/2015(Xem: 18873)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
29/03/2015(Xem: 19368)
Giảng về diệu lý Bát Nhã của Bộ Kinh Kim Cang là pháp môn bình đẳng. Chúng ta phần đông đều không hiểu cho nên đầu lại thêm đầu, tướng lại thủ tướng đem cái pháp bình đẳng biến thành không bình đẳng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]