Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vầng Sáng Sao Mai.

17/11/202020:57(Xem: 5274)
Vầng Sáng Sao Mai.

VẦNG  SÁNG  SAO  MAI.
buddha-581

Tại sao? Tại sao có sanh già, bệnh chết?

Tại sao nhân loại phải khổ đau?

Tại sao đế vương quyền uy cũng không tránh khỏi lìa xa vương vị?cha ta, vua một thị tộc tại Ca Tỳ La Vệ rồi cũng vậy sao?

Tại sao giai cấp Sát đế Lị quyền uy hơn Thủ Đa la?

Tại sao?....

                                                  ***

Chàng Đạo sĩ bỏ quên râu tóc sau nhiều năm nghiền ngẫm, chiêm nghiệm sự tuần hoàn, bất toàn trong cuộc sống.Một góc rừng kia, củi đang cháy, khói bốc lên thịt người khét mùi lợm giọng; thân ta đây, xác chết kia, khác nhau cái gì, toàn mùi xú uế. Phải chăng phấn son trong hoàng cung che đậy sự bất tịnh.Cung phi mỹ nữ, đàn ca hát xướng che đậy sự than khóc thống thiết của kiếp nhân sinh? Cuộc sống và kiếp người chỉ toàn ảo vọng được trang trí sắc hương đánh lừa cảm giác.Giàu nghèo là vỏ bọc để phân chia giai cấp, vị thế trong xã hội,khi mà nước mắt cùng mặn,máu cùng đỏ, khổ đau như nhau, về với cát bụi, ai cũng như ai, giàu sang mà chi, nghèo hèn là chi???

 Bềnh bồng trước gió xuyên qua rừng khổ hạnh;chàng vén lọn tóc dợn sóng, xỏa qua hai vai, từ tốn nhìn quanh khắp núi xanh, các lão tu bá nạp, y áo không đủ lành lặn, vẫn an nhiên nhắm  mắt, thần thức lạc vào chốn hư vô tĩnh mịch.Các vị thầy vẫn nghiền ngẫm theo dõi hơi thở, luyện tập hatha  yoga, có vị tập Karma Yoga, Mantra Yoga, Jnana Yoga, Bhakti Yoga, Tantra Yoga, Raja Yoga .. đều đạt đến một kết quả nhất định. Siddhārtha, nhìn lại mình, những thành quả đạt, không tìm được con đường tiến cao hơn; các vị thầy ngồi đó vẫn an trú, cảm thọ hỷ lạc pháp hành, trạng thái cảnh giới vô sắc của chư Thiên, xa lìa thế giới mộng tưởng trần gian. Nhìn lên bầu trời bao la, nhìn xuống cảnh vật mênh mông, chúng sanh sống trên sinh mạng lẫn nhau, cảm thấy vui sướng khi gây đau khổ cho nhau. Kiếp sống thật vô nghĩa!

 Động vật ăn đêm, nhẹ bước trên thảm lá khô, sợ làm giao động không gian đang  đặc quánh ngột ngạt.Bầu trời trong xanh u tịch, lắm khi đổ vài cơn mưa trái mùa, không đủ xua tan muỗi mòng. Côn trùng trổi nhạc thê lương nhấn chìm cảnh vật sâu vào tăm tối. Đường mòn xuôi về thôn xóm phủ nhiều lớp lá mục bốc mùi ẩm thấp.Cuối bìa rừng, chân trời lấp lánh vài nụ sao lẻ loi buồn bã, cô đơn.

Chàng Đạo sĩ trẻ đã nhiều năm tự chôn mình cách ly xã hội.Có lẽ khổ hạnh là cách tốt nhất để đổi lấy sự khổ đau của kiếp người; Khổ hạnh là con đường đưa đến an lạc hạnh phúc.Đã bao đời,không chỉ Đạo sĩ Bà La Môn, còn có Kỳ Na giáo, và nhiều hệ phái chọn con đường khổ tu để có được kiếp sống an lạc trong cõi vĩnh hằng sau khi xả bỏ báo thân. Những bậc thầy A-la-la Ca-lam, Ưu-đà-la La-ma tử ...đã giúp chàng Đạo sĩ đạt đến Vô sở hữu xứ định, Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Nhưng, những trạng thái định đó không giải quyết được giải thoát luân hồi; sau khi chìm sâu vào định lực, chàng quán chiếu tận tường mọi cảm thọ. Thầy ta đó, huynh đệ ta đó, năm vị Tỳ kheo khổ tu kia, đều nhập và an trú các bậc Thiền hỷ lạc, như xưa kia, thân phụ làm lễ hạ điền, dưới bóng mát táng cây jambu (diêm-phù-đề), Ta li dục, li pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỉ lạc do li dục sinh, có tầm, có tứ." Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ."

 chàng từng nhập định cảm lạc thọ, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện, phải chăng, đó chỉ là trạng thái khởi đầu cho tiến trình đi sâu vào giải thể mọi cảm thọ, diệt trừ mọi vi tế ngã chấp!

                                                          ***

Mảnh y năm xưa, chàng trao đổi Hoàng bào cho tên thợ săn khi vượt qua dòng sông Anoma, tiến sâu vào rừng khổ hạnh, bao mùa mưa nắng, vài nơi mục nát, vài chỗ sút chỉ, chàng khâu túm lại bằng những sợi dây leo rừng.Móng tay dài cong không co lại được.Sau những năm tháng khổ hạnh, chàng Đạo sĩ nhận ra rằng, khổ tu không phải con đường đưa đến giải thoát, chàng Đạo sĩ kể lại:

Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: "Ta hãy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hạt hay súp đậu nhỏ." Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hột hay súp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn quá ít, bàn chân của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít. Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau: "Sa-môn Gautama có da đen." Một số người nói như sau: "Sa-môn Gautama, da không đen, Sa-môn Gautama có da màu xám." Một số người nói như sau: "Sa-môn Gautama da không đen, da không xám." Một số người nói như sau: "Sa-môn Gautama da không đen, da không xám, Sa-môn Gautama có da màu vàng sẫm." Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại vì Ta ăn quá ít."

                                               ***

Những hành giả khổ hạnh vẫn miên mật hành trì thiện pháp, tiếc nuối nhìn theo dáng đi của chàng Đạo sĩ trẻ dần tiến về cuối dốc. Năm anh em Kiều Trần Như trách móc – chàng đạo sĩ kia đã đi theo tham dục, không kham nỗi khổ hạnh.

Trong thôn xóm an bình lạ thường, lâu lắm, hình như chàng không nhìn thấy nếp sinh hoạt của cư dân; tiếng trẻ con nô đùa, tiếng chó sủa, đàn bò nhởn nha trên đồng cỏ.Xa kia,mặt trời gác tia nắng trên đọt cây, vài sợi khói lượn lờ trên nóc  lá thôn xóm.Một ngày mới bắt đầu.Chàng chậm rãi dừng chân, mở nắp bát, ngườidân trong thôn, kính cẩn dâng lên chiếc bánh chapati khô khốc đầy phấn bột.

Trên bãi cát nóng, che bởi táng cổ thụ Ni-câu-đà, chàng điềm tĩnh, mắt nhắm mật  định; đường dốc xuống sông, hai cô bé Nanda và Bala đang dắt bò, thấy Siddhārtha đang ngồi thiền định, họ sanh lòng kính mến liền vắt lấy sữa bò, nấu chín rồi dâng lên. Bát sữa đầu tiên sau nhiều năm kham khổ, Siddhārtha ăn xong cảm thấy thân thể khoẻ mạnh,tuy chưa bình phục hẳn, nhưng tinh thần phấn chấn lạ thường.

Gió hiu hiu từ sông thổi lên, Siddhārtha tựa lưng vào gốc cây, định thần dưỡng khí; đã nhiều năm, chàng đạo sĩ trẻ chưa từng được nằm, các vị thầy dạy rằng, ngủ ngồi vần tỉnh táo dễ kiểm soát thân tâm hơn ngã lưng.Nắng phả từng luồng khí nóng làm khô cả lá rừng; y bá nạp thấm đẫm mồ hôi, cũng chóng khô dưới sức nóng 50 độ. Cái rét Đông về cũng không làm cho bao hành giả rừng già trú trong hang động chùn bước. Hạ qua, Đông đến luân chuyển suốt kiếp người, có những hành giả như con dã tràng vật vã phấn đấu với nội tâm trước những hạt giống nhiễm ô bất trị.Cũng có những hành giả buông xuôi khi cố vượt qua những trạng thái tâm thức bị lạc dẫn vào thể nghiệm; không thiếu những thất bại não nề của nhiều hành giả tràn ngập chướng duyên như cơn thác lũ cuốn trôi bao công lao hành trì.

                                                         ***

Chàng lần mò xuống sông tắm, kiệt sức lâu ngày, ngất xỉu bất tỉnh, nàng mục nữ Sujàta chăn cừu đi ngang thấy thế, liền mở túi da đựng sữa đề hồ rót vào miệng cứu sống Người. Nửa tỉnh nữa mê,thần thức như lạc vào không trung dịu vợi; tiếng đàn du dương đâu đó văng vẳng bên tai, hồi tỉnh, Ngài biết đó là âm điệu của lão mù đàn dạo kiếm sống độ nhật.

-         Ông, làm sao mà tạo được âm thanh du dương như thế?

-          dây đàn quá căng sẽ đứt, quá dùn sẽ lạc điệu, đó là quy luật trung hòa mới tạo được những gì mình muốn, âm điệu cũng thế, du dương, khoan nhặt do ta biết điều độ – ông lão đáp.

 Từ bỏ kiếp khổ hạnh, đạo sĩ trẻ tươi khỏe với dưỡng chất bình thường, Người đến gốc cây Bồ Đề Thiền định; chị em nàng Sujata dâng cúng bát cháo sữa.Dưới cái nhìn thẩm thấu vạn vật, mọi sự khoác sắc màu tươi tắn; Người thả nhẹ gót sen trên bãi cát vàng, nước sông trong xanh, Siddhārtha ngâm chân vào dòng mát lạnh, cảm giác tươi mát dễ chịu.Một linh cảm thành tựu cho công phu tu tập, Đạo sĩ nâng nhẹ bình bát để trên mặt nước nguyện -: "Nếu ta được chứng quả thành Phật, thì nguyện cho cái bát nầy nổi trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông". Đúng như lời nguyện, chiếc bát trôi ngược về vùng nước xoáy cách đó không xa, nơi mà tương truyền trong Hiền kiếp, ba chiếc bát vàng của Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni và Phật Ca Diếp đắc đạo trước kia cũng tại nơi này.

Trở  lên bờ,về cội Bồ Đề ở Bodh Gaya, bèn xếp tréo chân, thẳng lưng trong tinh thần tỉnh táo sáng suốt. Em bé Sotthiya Svastika dâng cúng Người bó cỏ làm tọa cụ. Sau khi an trú thân tâm,mặt nhìn về hướng Đông, phía bờ sông Ni liên Thuyền, phát nguyện: "Dù cho da, thịt, xương, gân của ta có tan hoại và máu ta có khô cằn. Nếu không đạt quả vị Chánh Giác, ta sẽ không rời chỗ này"

                                                       ***

Đêm Đông, không như những cái lạnh thấu xương mọi năm, không gian tĩnh mịch, trong xanh màu ngọc bích,trùng dế vắng lặng, vạn vật trôi vào cõi xa xăm như ngàn tinh tú thăm thẳm cô đơn, như sự cô đơn của một hành giả từ bỏ mọi cám dỗ trần thế để chọn kiếp không nhà, không nơi an trú, lẻ loi, cô độc, hướng đến cảnh giới sâu thẳm nội thức.Mênh mông đất trời, vị Đạo sĩ trẻ vẫn miên man nhập định. Vẳng từ xa, tiếng gà lẻ loi rơi vào cô tịch. Bầu trời le lói mờ nhạt một vài sao khuya.

Từ vô thức xuất hiện ảo ảnh thịnh nộ, đe dọa hành giả, như những mũi tên bắn vào kính chắn, tự  rơi rụng từ xa, Đạo sĩ vẫn an nhiên bất động; Da du đà La, La Hầu La, xuất hiện réo gọi Thái tử trở về cuộc sống chăn êm nệm ấm, vị đạo sĩ trẻ vẫn bất định giữa đất trời giá lạnh; cung phi mỹ nữ ẻo lả nhún nhảy mời gọi, chàng vẫn bình thản nhìn những chiếc bóng vô hồn dần tan biến giữa màn đêm. Siddhārtha tiếp-tục nhập Diệt-Thọ-Tưởng định. Canh một vừa điểm, tuệ giác xuất hiện, Túc mạng minh, vô lượng kiếp quá khứ của Ngài biết rõ như lòng bàn tay.Vẫn điềm nhiên an trú đến canh hai, Thiên Nhãn Minh cũng xuất hiện, Ngài thấy rõ tương quan nhân quả của mọi chúng sanh. "Tại sao con người cứ phải sanh ra để chịu cảnh sanh, già, bệnh, chết". Câu trả lời: "Nguyên do chính là Lậu hoặc".Canh ba Ngài đạt được Lậu Tận Minh, một minh triết nhìn thấy nguyên nhân mọi sự trong tam giới.

                                                       ***

4 tuần thiền định dưới cội Pipphala (Bồ Đề), đạt được Tam minh, giải đáp được bài toán giải thoát luân hồi, Đức Phật nói: "Ta biết như thật 'Đây là khổ '. 'Đây là nguyên nhân của khổ '. 'Đây là sự diệt khổ '. 'Đây là con đường đưa đến diệt khổ )' ".

Vào tuần lễ thứ 7, Ngài chứng ngộ: Chân Như tánh, Bất Ly Như tánh, Bất Dị Như tánh, Y Duyên tánh , tức Lý Duyên Khởi, Không tánh, Huyễn tánh và Bình đẳng tánh của thế giới hiện tượng. Qua tiến trình thực nghiệm tâm linh, Ngài đã chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,  trở thành một vị Phật Shakyamuni (Thích-ca Mâu-ni) — "Trí giả của dòng dõi Thích-ca".

Trăng thượng tuần như vành móng tay tiếp sáng cho ngôi sao Mai lạc dần hướng Đông, gió từ dòng sông Ni Liên Thuyền vuốt ve cội Bồ Đề,lá tung bay như chư Thiên rải hoa chúc tụng đấng đại giác. Ánh rạng Đông làm mờ nhạt sao Mai, Trí tuệ giác ngộ làm nhạt nhòa vô minh vô lượng kiếp; thân  màu hoàng kim của Shakyamuni  thắp sáng cả tam giới như giáo lý thắp sáng con đường giải thoát.

 

MINH MẪN                                                                                                             12/11/2020

 kỷ niêm mùa Thành Đạo

    

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/08/2014(Xem: 6856)
Kính bạch thầy, Mười bảy tháng bảy hôm nay là tròn 2 năm thầy ngừng thở. Hai năm thật rồi ư…. Nhanh quá thầy ơi. Đêm qua con đã ngủ 1 giấc rất sâu, hình như được 2 -3 tiếng. Và con tỉnh dậy lúc gần 4 giờ sáng để ngồi thư giãn ít phút trước khi viết thư này gửi thầy, tâm sự cùng thầy…
08/08/2014(Xem: 7275)
Tâm hay trách móc, hay hờn tủi, tâm đó sẽ làm cho chúng ta khổ đau. Không sợ già, không sợ chết, chỉ sợ chúng ta không có trí tuệ, chúng ta không biết tu tập, nên chúng ta không có khả năng để vẽ đời sống của chúng ta, cái dáng dấp đẹp đẽ của chúng ta trong tương lai. Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta. Chúng ta có thể tiếp xúc, cảm nhận được hạnh phúc và an lạc ở bất cứ thời gian và không gian nào. Khi chúng ta ý thức rõ về sự sống, chúng ta biết gạn lọc tất cả những cái gì làm cho sự sống của chúng ta bị cáu bẩn, thì sự thanh trong của cuộc sống tự nó sẽ hiện ra.
07/08/2014(Xem: 15729)
Chưa ai thực thụ hay đã “định cư„ Cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà để biết thế nào rồi...hiện hồn về kể cho chúng ta nghe. Thế nhưng bấy lâu, dựa theo kinh sách và óc tưởng tượng của mọi người đều phác họa một cảnh giới cực lạc đầy hoa thơm cỏ lạ, suối róc rách reo, chim muông ca hót, mây lững lờ trôi, gió vi vu thổi, rừng cây sum sê ăn trái, núi bốc hương thơm, sông hồ cá lững lờ lội, và cả châu báu kim cương, mã não, hổ phách…đầy đường đầy nhà muốn lúc nào cũng có…!
06/08/2014(Xem: 18174)
Vu Lan báo hiếu lại về, Khắp nơi phật tử nhất tề dâng hương. Người người già trẻ bốn phương, Lên cầu cho mẹ, mến thương hết lời. Cửa chùa mở rộng đón mời, Hỏi thăm hiền mẫu trên đời còn không, Mẹ còn, chùa lấy hoa hồng, Cài lên vạt áo, cho lòng thêm tươi. Người nào mẹ đã qua đời, Thì cài hoa trắng, gửi lời nhớ thương.
05/08/2014(Xem: 7461)
Bạn nghe tiêu đề và thấy vô lý quá đúng không. Tôi cũng thế, nếu tôi chỉ đọc tên bài viết này thì cũng giật mình vì cho rằng có vấn đề. Rồi thấy buồn cười. Hằng ngày chúng ta suy nghĩ, nói năng, làm việc liên tục không ngừng nghỉ. Từ sáng sớm đến đêm khuya. Ngay cả khi ngủ chúng ta cũng không nghỉ. Hằng ngày, khi chúng ta làm việc mà nếu tâm vẫn trong sạch, không mọc rễ, thì khi đó ta đã đưa tâm về nhà. I have a rrived. I am home. Ta đã về. Ta đã tới. Nhưng nếu ta làm cái gì đó rồi tâm ta mọc rễ thì ta đã đưa tâm đi xa nhà. I am far from my home. Ta đã đi xa nhà mất rồi, thật rồi.
01/08/2014(Xem: 9630)
Bạn bè tôi thường hay đùa nhau nói: giày dép còn có số huống chi con người ta. Tôi biết, đó là bạn bè đùa vui thôi! Cuộc đời tôi thì có gắn bó nhiều với những câu chuyện về giày dép. Có bạn còn nói: cái mũ người ta đội trên đầu mới đáng nói hơn, nói chi lòng vòng mấy cái chuyện giày chuyện dép, chỉ là món đồ dùng người ta mượn để đạp dưới đất mà đi. Thì cũng có sao đâu! Cái mũ đội trên đầu thấy „cao thượng“ nhưng lúc lỡ quên mang theo thì mình có thể chui vào đâu đó tránh nắng hay dùng khăn chùm đầu cũng đỡ lạnh. Nhưng giày dép mà vắng mặt thì… bạn ơi, có hơi chật vật đấy! Sỏi đá, gai góc vào chân thì chỉ có khóc thôi. Phải vậy không? Ai từng gặp cảnh ấy mới biết. Bởi nghĩ thế nên mấy cái chuyện giày chuyện dép ấy nó cứ đeo đuổi theo tôi nhiều năm, đến hôm nay mới có dịp kể ra đây.
31/07/2014(Xem: 7721)
Máy bay cất cánh từ phi trường Kastrup, Copenhagen lúc 20 giờ 30 tối, trong đầu tôi vẫn còn nỗi lo là mình đến phi trường Geneva lúc 22 giờ 25 rồi có gặp được các học viên của Khóa Tu Học Phật Pháp, hay có ai đến đón chúng tôi không? Như Thầy Quảng Hiền đã trấn an không?
30/07/2014(Xem: 7184)
‘Bạch Thế Tôn, mới rồi, một gia chủ giàu có ở thành Savatthi này qua đời mà không có con thừa kế. Con vừa cho chuyển tài sản của ông ta vào kho của hoàng cung; những tám triệu đồng tiền bằng vàng chưa kể số tiền bằng bạc. Mặc dù là một gia chủ giàu có, thế nhưng bữa ăn hằng ngày của ông ta thì chỉ là cháo nấu bằng gạo nát với bánh làm bằng đậu khô; y phục vỏn vẹn chỉ có ba mảnh vải dệt bằng sợi gai; phương tiện di chuyển là chiếc xe bò gãy gọng nóc lợp bằng rơm’.
29/07/2014(Xem: 9155)
Thông thường làm từ thiện, ai cũng liên kết với lòng Từ bi. Thấy ai làm từ thiện đều nghĩ người đó có tâm từ. Thật ra, cùng một động thái nhưng nội hàm có nhiều sai biệt. Có người vì xu hướng mà làm từ thiện, có người vì ham danh mà làm từ thiện, có người chạy theo phong trào mà làm từ thiện...những trường hợp nầy thiết nghĩ không cần phải đề cập, cái cần đề cập là những người thực tâm vì thương xót đối tượng mà làm từ thiện. Trường hợp nầy hoàn toàn đồng ý đây là tâm tốt, nhưng tốt đối với người bình thường trong xã hội, riêng với một Phật tử dù xuất gia hay tại gia, việc hành thiện còn phải xây dựng trên nền tảng tâm Bồ đề.
29/07/2014(Xem: 9041)
Tất cả chúng ta đều có thể bị bệnh. Một khi chúng ta được sinh ra trong vòng luân hồi sinh tử với thân thể này thì có nghĩa là chúng ta đã chịu sự ảnh hưởng của những phiền não và nghiệp chướng, cho nên bị ốm đau là điều không thể nào tránh khỏi. Đó cũng chính là bản chất của cơ thể chúng ta - thân thể này sẽ già đi và sẽ bị bệnh. Ma-ha Tăng kỳ luật, quyển 28, Đại chính tân tu Đại tạng kinh, tập 22, trang 455b)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]