Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại sư Tây Sơn, vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc, Bảo vệ nền Độc lập Triều Tiên

01/11/202016:21(Xem: 5029)
Đại sư Tây Sơn, vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc, Bảo vệ nền Độc lập Triều Tiên

Đại sư Tây Sơn, vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc, 
Bảo vệ nền Độc lập Triều Tiên

 Đại sư Tây Sơn vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc-03

Đại sư Tây Sơn (서산대사, 西山大師, 1520-1604), có đạo hiệu Thanh Hư Đường Tập (휴정휴정, 淸虛堂集) hay còn gọi là Đại sư Thanh Hư đường Hưu Tĩnh (청허당 휴정, 淸虛堂 休靜). Vị cao tăng thạc đức danh tiếng nhất Triều Tiên vào giữa cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, thuộc Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc. Cuộc đời của Ngài nổi bật qua công cuộc phát huy ánh sáng từ bi, trí tuệ, hùng lực, truyền bá tư tưởng tự do bình đẳng của đạo Phật, triết lý và biên soạn các tác phẩm Thiền tông.

 

Tổ quốc và nhân dân Triều Tiên đời đời ghi công ơn của Đại sư Tây Sơn qua hoạt động duy trì, chiến đấu bảo vệ nền độc lập Triều Tiên, kêu gọi tăng sĩ Phật giáo hãy cởi áo cà sa, khoát chiến bào, xông pha ra chiến trường kháng chiến chống quân xâm lược Nhật Bản vào cuối thế kỷ 16.

 

Quốc võ “Đài Quyền Đạo” (Taekwon-Do Seo-San, 태권도, 跆拳道), được đặt tên để vinh danh Đại sư Tây Sơn.

 

Quốc võ “Đài Quyền Đạo” (Taekwon-Do Seo-San, 태권도, 跆拳道), môn thể thao quốc gia của Hàn Quốc và là loại hình võ đạo (무도, 武道) thường được tập luyện nhiều nhất của người dân nước này. Đây cũng là một trong những môn thể thao phổ biến nhất trên thế giới.

 

Đại sư Tây Sơn sinh vào ngày 26 tháng 3 năm 1520, niên hiệu Triều Tiên Trung Tông (朝鮮中宗, 조선중종) năm thứ 15,tại Anju, tỉnh Pyeongan-do (平安道安州), Triều Tiên; hựu danh Vân Hạc (雲鶴) tự Huyền Ưng (玄應) hiệu Thanh Hư (清虛), vị Tăng lữ Thiền tông danh tiếng vào triều đại Joseon (Triều Tiên).

 

Ngài tục danh Thôi Nhữ Tín (최여신, 崔汝信). Thế nhân thường gọi Đại sư Tây Sơn, Tăng Tướng quân (승군장, 僧軍將), Nghĩa Tăng Tướng (의승장, 義僧將), Bạch Hoa Đạo nhân (백화도인, 白華道人), Phong Nhạc Sơn nhân (악산인, 楓岳山人), Đầu Lưu Sơn nhân (두류산인, 頭流山人), Diệu Hương Sơn nhân (묘향산인, 妙香山人), và sau khi từ chức “Thiền giáo Lưỡng tông Phán sự” (선교양종판사, 禪敎兩宗判事) Ngài có danh xưng “Tào Khê Thoái Ẩn” (조계퇴은, 曹溪退隱), Cứu Quốc (구국, 救國), Đại Công (대공, 大功), Tòng Vân (송운, 松雲). . . và nhiều danh hiệu khác nữa. Thân phụ của Ngài là cụ ông Thôi Thế Xương (최세창, 崔世昌) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Thị (김씨, 金氏).

 

Năm lên 9 tuổi, Hiền mẫu của Ngài đã từ trần, và sau đó cụ Thân sinh lại từ giã thế gian. Sau đó, Ngài đi theo một người bạn của cha là cụ Lý Tư Tăng (이사증, 李思曾) đến Seoul và bắt đầu sự nghiệp học văn tập võ trong 3 năm tại Đại học Thành Quân Quán (Sungkyunkwan University; 성균관대학교; 成均館大學校), học viện giáo dục cao nhất vào triều đại Joseon (Triều Tiên).

 

Năm lên 14 tuổi, Ngài trở nên thông minh xuất chúng, nhưng Ngài vẫn cảm thấy thất vọng bởi rất khó để có thể dành được một vị trí quan lại trong bộ máy triều đình khi bị trượt kỳ thi chính thức, và sự thiếu hụt về nền tảng gia đình vững chắc. Với những cảm giác thất vọng về thực tại của mình, Ngài cùng một số bạn hữu quyết định du hành đến những nơi mà họ có thể tìm thấy các vị Đại Đạo sư Phật giáo với trí tuệ siêu phàm nhất.

 

Tại Trí Dị sơn (지리산, 智異山), Ngài đến một tiểu Am gần ngôi già lam cổ tự Tân Hưng (신흥사, 新興寺), bái kiến Trưởng lão Hòa thượng Sùng Nhân (숭인장로, 崇仁長老), người đã có tác động rất lớn đến quyết định tối hậu của Ngài. Nơi đây, Trưởng lão Hòa thượng Sùng Nhân hướng dẫn Ngài tham học Phật pháp.

 

Ngài đã đặt câu hỏi: “Làm thế nào để Chân tâm hiển hiện? Tâm người giác ngộ như thế nào?”.

 

Trưởng lão Hòa thượng Sùng Nhân trả lời: “Tâm không phải là một vật và không thể diễn tả nó qua ngôn ngữ. Không ngoại hình, màu sắc, kích cỡ, trọng lượng, tâm thuộc về một thế giới mà không thể biết được thông qua cái biết của bộ não. Do đó, để có thể tỏ ngộ được tự tâm, mỗi người phải tự tu hành tự thành Phật đạo”. Sau đó, Trưởng lão Hòa thượng Sùng Nhân nhấn mạnh rằng: “Nếu con đọc kỹ và quán chiếu Kinh văn sâu sắc. Con có thể vào đất Chân tâm một cách dễ dàng”.

 

Vì trước kia đã quen với việc nghiên cứu và đọc các sách Nho Giáo, Ngài nhanh chóng quen với việc nghiên tầm Tam Tạng Kinh Điển, kinh văn Phật giáo và ngộ ra sự vô thường nhân sinh và điều thiết yếu của việc tu tập. Trong khi những người bạn đã quay trở lại Seoul, Ngài quyết định ở lại đây tu tập và đảnh lễ Trưởng lão Hòa thượng Sùng Nhân xin làm đệ tử và tiếp tục tu học Phật pháp.

 

Ngài vân du đó đây các nơi như Hoa Nghiêm động (화엄동, 華嚴洞), Thất Phật động (칠불동, 七佛洞). Sau đó, Ngài đảnh lễ xin tham cứu Thiền học với Thiền sư Phù Dung Linh Quán (부용영관대사, 芙蓉靈觀大師, 1485~1572), vị Thiền sư ngộ đạo nhờ chuyên tâm thực hành Tham thoại đầu và từ việc tầm chương trích cú kinh văn giáo lý. Dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Phù Dung, Ngài chuyên tâm tham Thiền trong nhiều năm và có sự phát sinh trí huệ, nhưng vẫn chưa đại ngộ, và vì thế Ngài càng quyết tâm dụng công phu tu tập hơn. Một đêm nọ, khi đang tọa Thiền, Ngài nghe tiếng chim cu hót và hoát nhiên đại ngộ. Ngài liền ngẫu hứng thuyết kệ ngộ đạo:

 

십년단좌옹심성

관득심림조불경

작야송담풍우악

어생일각학삼성

 

十年端坐雍心誠

觀得深林鳥不驚

昨夜從潭風雨渥

魚生一覺鷽三聲

 

Thập niên đoan tọa ủng tâm thành,

Quán đắc thâm lâm điểu bất kinh,

Tạc dạ tùng đàm phong vũ ác;

Ngư sanh nhứt giác, hạc tam thanh.

 

Dịch:

 

Mười năm ngồi tĩnh lặng tâm an,

Chim ẩn non cao thấy chẳng màng,

Đêm qua mưa sủng bên đầm lạnh;

Cá bừng tỉnh giấc hạc kêu oang.

(Thích Ngyên Hiền dịch)

 

Sau đó, sư được Thiền sư Phù Dung ấn khả chứng minh và truyền pháp kế vị truyền thừa Thiền phái Tào Khê đời thứ 63 tính từ sơ tổ Ma Ha Ca Diếp, đời thứ 36 tính từ tổ Bồ Đề Đạt Ma và đời thứ 7 tính từ Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu (태고보우, 太古普愚, 1301-1382).

 

Đến năm 30 tuổi, Ngài nhậm chức Trụ trì Tổ đình Phụng Ân Tự (奉恩寺) và sau đó Ngài vân du khắp các chốn tòng lâm đại tự hoằng dương Phật pháp.

 

Vào năm 32 tuổi, sư bắt đầu giảng dạy và truyền bá Phật Pháp và đứng đầu trong việc kiểm tra các hoạt động tu tập tại các cơ sở tự viện Phật giáo. Và sau đó trở thành vị lãnh đạo tối cao của Phật giáo Triều Tiên lúc bấy giờ, cả về truyền thống thực hành Thiền Tông (Thiền) và nghiên cứu Kinh Điển (Giáo). Tuy nhiên, sau đó sư từ chức và trở về ngọn núi Kim Cương (금강산, 金剛山) và tiếp tục thực hành Thiền định và thu nhận, hướng dẫn tu tập cho các vị Thiền sinh trẻ tuổi cũng như sáng tác các tác phẩm Thiền học.

 Đại sư Tây Sơn vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc-02

Chiến đấu

 

Năm 1552, niên hiệu Triều Tiên Minh Tông (조선 명종, 朝鮮明宗) năm thứ 7, sau khi tốt nghiệp Đại học Thành Quân Quán và được bổ nhiệm chức “Thiền giáo Lưỡng tông Phán sự” (선교양종판사, 禪敎兩宗判事). Sự thành đạt và được chấp nhận của trong thời đại quân chủ Triều Tiên, là một sự kiện nổi bật trong chính sách Phật giáo của triều đại Triều Tiên.

 

Năm 1592, sau khi Phong Thần Tú Cát (とよとみ ひでよし, 豊臣 秀吉) cai trị và ổn định Nhật Bản trong Thời đại Chiến Quốc (戰國時代) xong, Đại sư Tây Sơn ta đã chuẩn bị cho một cuộc xâm lược quy mô lớn vào Triều Tiên dưới triều đại Joseon. Năm 1592, sau khi yêu cầu của Nhật Bản về viện trợ để Nhật Bản chinh phục nhà Nguyên Trung Quốc bị Joseon từ chối, khoảng 200.000 binh lính Nhật Bản đã tiến vào xâm lược Triều Tiên. Lúc này, Đại sư Tây Sơn 72 tuổi đang ẩn cư trên núi Diệu Hiền (묘향산, 妙香山).

 

Mặc dù dưới triều đại Joseon, Phật giáo Triều Tiên phải đối mặt với sự khinh miệt và bài trừ do chính sách đàn áp Phật Giáo và tôn sùng Nho Giáo do tướng Lý Thành Quế (이성계, 李成桂) ban hành nhằm thu hút sự ủng hộ chính trị của các Nho sĩ để củng cố quyền lực và chống lại các đối thủ chính trị gia Phật giáo khi ông lật đổ Cung Nhượng Vương (공양왕, 恭讓王) của triều Cao Ly và lên ngôi Triều Tiên Thái Tổ. Tuy nhiên, Đại sư Tây Sơn vẫn nghĩ về lợi ích quốc gia và nói với các môn đệ rằng mặc dù quốc gia đã từ bỏ Phật Giáo, nhưng Phật giáo không bao giờ từ bỏ quốc gia, vì quốc gia là nơi mà vô số chúng sinh cần được cứu độ thông qua đại từ bi tâm. Ngay cả khi ở độ tuổi 73, Đại sư vẫn đứng lên kêu gọi và chiêu mộ hơn 5000 tăng sĩ yêu nước và chỉ huy, lãnh đạo họ chiến đấu chống quân xâm lược và ghóp phần quan trọng vào những chiến thắng quân sự và cuối cùng đánh bại quân Nhật vào năm 1598.

 

Vào thời “Biến loạn Nhâm Thìn” (임진왜란, 壬辰倭亂), Quốc vương Triều Tiên Tuyên Tổ (조선 선조, 朝鮮宣祖) đã ban Thánh chỉ phong Đại sư Tây Sơn chức “Tổng nhiếp Bát Đạo Đô” (팔도도총섭, 八道都摠攝), và hiệu triệu tăng sĩ Phật giáo toàn quốc nổi dậy kháng chiến chống Đế quốc Nhật xâm lược. Mặc dù trên cương vị “Tổng chỉ huy Bát đạo Tăng binh” (八道僧兵的總指揮, 팔도승병총지휘), nhưng do tuổi cao sức yếu, Ngài đã trao quyền Tướng thống lĩnh Chỉ huy Tăng binh cho đệ tử là Đại sư Duy Chính Tứ Minh (유정사명대사, 惟政泗溟大師).

 Đại sư Tây Sơn vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc-01

 

Thị tịch

 

Sau khi lãnh đạo các tăng sĩ chiến đấu chống lại quân xâm lược Nhật Bản thành công, Đại sư đã trao lại nhiệm vụ lãnh đạo này lại cho các đệ tử của mình và quay trở lại núi và chuyên tâm tu hành.

 

Vào ngày 23 tháng 1 năm 1604, với tuyết phủ xung quanh Am Viên Tịch (원적암, 圓寂菴), Diệu Hiền (묘향산, 妙香山), , tỉnh Pyeongan-do (平安道安州), Triều Tiên. Đại sư thuyết pháp lần cuối cho các môn đệ về công án “Tâm“ mà mình đã trọn đời tu tập. Và trao bức chân dung của mình cho các môn đệ và viết những lời cuối cùng:

 

“Tám mươi  năm trước, thứ đó chính là tôi. Tám mươi năm sau, và bây giờ tôi không còn là thứ đó“ (‘80년 전에는 그가 나이더니, 八十年前渠是我), 80년 후에는 내가 그로구나, 八十年後我是渠’).

 

Ngài ngồi kiết già trong tư thế hoa sen và thanh thản an nhiên Viên tịch. Hưởng thọ 84 tuổi, Giới lạp 67 Hạ. Đại Sư để lại nhiều tác phẩm Thiền học quý báu, trong đó tác phẩm Thiền Gia Quy Giám đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có bản tiếng Việt.

 

Đại sư đã đào tạo hơn 1000 môn đệ và trong số đó có hơn 70 nhân vật xuất chúng. Trong số những vị này, 4 môn đệ xuất sắc nhất là: Đại sư Tứ Minh (사명대사, 四溟大師, 1544 -1610), Thiền sư Tiên Dương Ngạn Cơ (편양언기선사, 鞭羊彦機禪師, 1581~1644), Đại sư Tiêu Dao Thái Năng (소요 태능대사, 逍遙 太能大師,  1562-1649), (정관일선대사, Đại sư Tĩnh Quán Nhất Thiền 靜觀 一禪 大師, 1533 -1608).

 

Những trước tác (저작, 著作) của Ngài lưu lại hậu thế:

 

“Thiền gia Quy Giám” (선가귀감, 禪家龜鑑)

“Nho gia Quy Giám” (유가귀감, 儒家龜鑑)

“Đạo gia Quy giám” (도가귀감, 道家龜鑑)

“Thiền giáo Thích” (선교석,  禪敎釋)

“Thiền giáo Quyết” (선교결, 禪敎訣)

“Tâm Pháp Yếu Sao” (심법요초, 心法要抄)

“Vân Thủy Đàn” (운수단, 雲水壇)

“Thuyết Thiền Nghi” (설선의, 說禪儀)

“Tam Lão Hành Tích “ (삼로행적, 三老行蹟)

“Thanh Hư Đường Tập” (청허당집, 淸虛堂集)

 

Đại sư Tây Sơn là một vị Thánh Tăng thị hiện trên mãnh đất đầy biến động của giai đoạn cuối thế kỷ 16 Triều Tiên, Ngài đã mồi ngọn đèn Thiền Đạt Ma, nối mạng mạch suối nguồn Tào Khê tuôn dòng chảy vô tận, Ngài là một trong những vị tỏa sáng ánh quang minh Từ bi, Trí tuệ, đại hùng đại lực của Phật giáo Hàn Quốc.

 

Sự thị hiện của Ngài chính là một đóa sen, nằm giữa ao bùn mà vẫn toả ngát hương, ngào ngạt khắp muôn phương. Đại sư Tây Sơn (서산대사, 西山大師 đã viên tịch thời gian bao thế kỷ, hành trạng cuộc đời và sự nghiệp của Ngài, thời gian trăm năm trôi qua, nhưng danh thơm tiếng tốt của Ngài mãi với non sông đất nước Hàn Quốc, trái tim của Ngài vẫn cùng nhịp thở với muôn vật và con người xứ Kim Chi.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Contents History)

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/01/2021(Xem: 5634)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7152)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4445)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9312)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5598)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5207)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5825)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6319)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5333)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5079)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]