Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại sư Tây Sơn, vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc, Bảo vệ nền Độc lập Triều Tiên

01/11/202016:21(Xem: 4970)
Đại sư Tây Sơn, vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc, Bảo vệ nền Độc lập Triều Tiên

Đại sư Tây Sơn, vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc, 
Bảo vệ nền Độc lập Triều Tiên

 Đại sư Tây Sơn vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc-03

Đại sư Tây Sơn (서산대사, 西山大師, 1520-1604), có đạo hiệu Thanh Hư Đường Tập (휴정휴정, 淸虛堂集) hay còn gọi là Đại sư Thanh Hư đường Hưu Tĩnh (청허당 휴정, 淸虛堂 休靜). Vị cao tăng thạc đức danh tiếng nhất Triều Tiên vào giữa cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, thuộc Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc. Cuộc đời của Ngài nổi bật qua công cuộc phát huy ánh sáng từ bi, trí tuệ, hùng lực, truyền bá tư tưởng tự do bình đẳng của đạo Phật, triết lý và biên soạn các tác phẩm Thiền tông.

 

Tổ quốc và nhân dân Triều Tiên đời đời ghi công ơn của Đại sư Tây Sơn qua hoạt động duy trì, chiến đấu bảo vệ nền độc lập Triều Tiên, kêu gọi tăng sĩ Phật giáo hãy cởi áo cà sa, khoát chiến bào, xông pha ra chiến trường kháng chiến chống quân xâm lược Nhật Bản vào cuối thế kỷ 16.

 

Quốc võ “Đài Quyền Đạo” (Taekwon-Do Seo-San, 태권도, 跆拳道), được đặt tên để vinh danh Đại sư Tây Sơn.

 

Quốc võ “Đài Quyền Đạo” (Taekwon-Do Seo-San, 태권도, 跆拳道), môn thể thao quốc gia của Hàn Quốc và là loại hình võ đạo (무도, 武道) thường được tập luyện nhiều nhất của người dân nước này. Đây cũng là một trong những môn thể thao phổ biến nhất trên thế giới.

 

Đại sư Tây Sơn sinh vào ngày 26 tháng 3 năm 1520, niên hiệu Triều Tiên Trung Tông (朝鮮中宗, 조선중종) năm thứ 15,tại Anju, tỉnh Pyeongan-do (平安道安州), Triều Tiên; hựu danh Vân Hạc (雲鶴) tự Huyền Ưng (玄應) hiệu Thanh Hư (清虛), vị Tăng lữ Thiền tông danh tiếng vào triều đại Joseon (Triều Tiên).

 

Ngài tục danh Thôi Nhữ Tín (최여신, 崔汝信). Thế nhân thường gọi Đại sư Tây Sơn, Tăng Tướng quân (승군장, 僧軍將), Nghĩa Tăng Tướng (의승장, 義僧將), Bạch Hoa Đạo nhân (백화도인, 白華道人), Phong Nhạc Sơn nhân (악산인, 楓岳山人), Đầu Lưu Sơn nhân (두류산인, 頭流山人), Diệu Hương Sơn nhân (묘향산인, 妙香山人), và sau khi từ chức “Thiền giáo Lưỡng tông Phán sự” (선교양종판사, 禪敎兩宗判事) Ngài có danh xưng “Tào Khê Thoái Ẩn” (조계퇴은, 曹溪退隱), Cứu Quốc (구국, 救國), Đại Công (대공, 大功), Tòng Vân (송운, 松雲). . . và nhiều danh hiệu khác nữa. Thân phụ của Ngài là cụ ông Thôi Thế Xương (최세창, 崔世昌) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Thị (김씨, 金氏).

 

Năm lên 9 tuổi, Hiền mẫu của Ngài đã từ trần, và sau đó cụ Thân sinh lại từ giã thế gian. Sau đó, Ngài đi theo một người bạn của cha là cụ Lý Tư Tăng (이사증, 李思曾) đến Seoul và bắt đầu sự nghiệp học văn tập võ trong 3 năm tại Đại học Thành Quân Quán (Sungkyunkwan University; 성균관대학교; 成均館大學校), học viện giáo dục cao nhất vào triều đại Joseon (Triều Tiên).

 

Năm lên 14 tuổi, Ngài trở nên thông minh xuất chúng, nhưng Ngài vẫn cảm thấy thất vọng bởi rất khó để có thể dành được một vị trí quan lại trong bộ máy triều đình khi bị trượt kỳ thi chính thức, và sự thiếu hụt về nền tảng gia đình vững chắc. Với những cảm giác thất vọng về thực tại của mình, Ngài cùng một số bạn hữu quyết định du hành đến những nơi mà họ có thể tìm thấy các vị Đại Đạo sư Phật giáo với trí tuệ siêu phàm nhất.

 

Tại Trí Dị sơn (지리산, 智異山), Ngài đến một tiểu Am gần ngôi già lam cổ tự Tân Hưng (신흥사, 新興寺), bái kiến Trưởng lão Hòa thượng Sùng Nhân (숭인장로, 崇仁長老), người đã có tác động rất lớn đến quyết định tối hậu của Ngài. Nơi đây, Trưởng lão Hòa thượng Sùng Nhân hướng dẫn Ngài tham học Phật pháp.

 

Ngài đã đặt câu hỏi: “Làm thế nào để Chân tâm hiển hiện? Tâm người giác ngộ như thế nào?”.

 

Trưởng lão Hòa thượng Sùng Nhân trả lời: “Tâm không phải là một vật và không thể diễn tả nó qua ngôn ngữ. Không ngoại hình, màu sắc, kích cỡ, trọng lượng, tâm thuộc về một thế giới mà không thể biết được thông qua cái biết của bộ não. Do đó, để có thể tỏ ngộ được tự tâm, mỗi người phải tự tu hành tự thành Phật đạo”. Sau đó, Trưởng lão Hòa thượng Sùng Nhân nhấn mạnh rằng: “Nếu con đọc kỹ và quán chiếu Kinh văn sâu sắc. Con có thể vào đất Chân tâm một cách dễ dàng”.

 

Vì trước kia đã quen với việc nghiên cứu và đọc các sách Nho Giáo, Ngài nhanh chóng quen với việc nghiên tầm Tam Tạng Kinh Điển, kinh văn Phật giáo và ngộ ra sự vô thường nhân sinh và điều thiết yếu của việc tu tập. Trong khi những người bạn đã quay trở lại Seoul, Ngài quyết định ở lại đây tu tập và đảnh lễ Trưởng lão Hòa thượng Sùng Nhân xin làm đệ tử và tiếp tục tu học Phật pháp.

 

Ngài vân du đó đây các nơi như Hoa Nghiêm động (화엄동, 華嚴洞), Thất Phật động (칠불동, 七佛洞). Sau đó, Ngài đảnh lễ xin tham cứu Thiền học với Thiền sư Phù Dung Linh Quán (부용영관대사, 芙蓉靈觀大師, 1485~1572), vị Thiền sư ngộ đạo nhờ chuyên tâm thực hành Tham thoại đầu và từ việc tầm chương trích cú kinh văn giáo lý. Dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Phù Dung, Ngài chuyên tâm tham Thiền trong nhiều năm và có sự phát sinh trí huệ, nhưng vẫn chưa đại ngộ, và vì thế Ngài càng quyết tâm dụng công phu tu tập hơn. Một đêm nọ, khi đang tọa Thiền, Ngài nghe tiếng chim cu hót và hoát nhiên đại ngộ. Ngài liền ngẫu hứng thuyết kệ ngộ đạo:

 

십년단좌옹심성

관득심림조불경

작야송담풍우악

어생일각학삼성

 

十年端坐雍心誠

觀得深林鳥不驚

昨夜從潭風雨渥

魚生一覺鷽三聲

 

Thập niên đoan tọa ủng tâm thành,

Quán đắc thâm lâm điểu bất kinh,

Tạc dạ tùng đàm phong vũ ác;

Ngư sanh nhứt giác, hạc tam thanh.

 

Dịch:

 

Mười năm ngồi tĩnh lặng tâm an,

Chim ẩn non cao thấy chẳng màng,

Đêm qua mưa sủng bên đầm lạnh;

Cá bừng tỉnh giấc hạc kêu oang.

(Thích Ngyên Hiền dịch)

 

Sau đó, sư được Thiền sư Phù Dung ấn khả chứng minh và truyền pháp kế vị truyền thừa Thiền phái Tào Khê đời thứ 63 tính từ sơ tổ Ma Ha Ca Diếp, đời thứ 36 tính từ tổ Bồ Đề Đạt Ma và đời thứ 7 tính từ Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu (태고보우, 太古普愚, 1301-1382).

 

Đến năm 30 tuổi, Ngài nhậm chức Trụ trì Tổ đình Phụng Ân Tự (奉恩寺) và sau đó Ngài vân du khắp các chốn tòng lâm đại tự hoằng dương Phật pháp.

 

Vào năm 32 tuổi, sư bắt đầu giảng dạy và truyền bá Phật Pháp và đứng đầu trong việc kiểm tra các hoạt động tu tập tại các cơ sở tự viện Phật giáo. Và sau đó trở thành vị lãnh đạo tối cao của Phật giáo Triều Tiên lúc bấy giờ, cả về truyền thống thực hành Thiền Tông (Thiền) và nghiên cứu Kinh Điển (Giáo). Tuy nhiên, sau đó sư từ chức và trở về ngọn núi Kim Cương (금강산, 金剛山) và tiếp tục thực hành Thiền định và thu nhận, hướng dẫn tu tập cho các vị Thiền sinh trẻ tuổi cũng như sáng tác các tác phẩm Thiền học.

 Đại sư Tây Sơn vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc-02

Chiến đấu

 

Năm 1552, niên hiệu Triều Tiên Minh Tông (조선 명종, 朝鮮明宗) năm thứ 7, sau khi tốt nghiệp Đại học Thành Quân Quán và được bổ nhiệm chức “Thiền giáo Lưỡng tông Phán sự” (선교양종판사, 禪敎兩宗判事). Sự thành đạt và được chấp nhận của trong thời đại quân chủ Triều Tiên, là một sự kiện nổi bật trong chính sách Phật giáo của triều đại Triều Tiên.

 

Năm 1592, sau khi Phong Thần Tú Cát (とよとみ ひでよし, 豊臣 秀吉) cai trị và ổn định Nhật Bản trong Thời đại Chiến Quốc (戰國時代) xong, Đại sư Tây Sơn ta đã chuẩn bị cho một cuộc xâm lược quy mô lớn vào Triều Tiên dưới triều đại Joseon. Năm 1592, sau khi yêu cầu của Nhật Bản về viện trợ để Nhật Bản chinh phục nhà Nguyên Trung Quốc bị Joseon từ chối, khoảng 200.000 binh lính Nhật Bản đã tiến vào xâm lược Triều Tiên. Lúc này, Đại sư Tây Sơn 72 tuổi đang ẩn cư trên núi Diệu Hiền (묘향산, 妙香山).

 

Mặc dù dưới triều đại Joseon, Phật giáo Triều Tiên phải đối mặt với sự khinh miệt và bài trừ do chính sách đàn áp Phật Giáo và tôn sùng Nho Giáo do tướng Lý Thành Quế (이성계, 李成桂) ban hành nhằm thu hút sự ủng hộ chính trị của các Nho sĩ để củng cố quyền lực và chống lại các đối thủ chính trị gia Phật giáo khi ông lật đổ Cung Nhượng Vương (공양왕, 恭讓王) của triều Cao Ly và lên ngôi Triều Tiên Thái Tổ. Tuy nhiên, Đại sư Tây Sơn vẫn nghĩ về lợi ích quốc gia và nói với các môn đệ rằng mặc dù quốc gia đã từ bỏ Phật Giáo, nhưng Phật giáo không bao giờ từ bỏ quốc gia, vì quốc gia là nơi mà vô số chúng sinh cần được cứu độ thông qua đại từ bi tâm. Ngay cả khi ở độ tuổi 73, Đại sư vẫn đứng lên kêu gọi và chiêu mộ hơn 5000 tăng sĩ yêu nước và chỉ huy, lãnh đạo họ chiến đấu chống quân xâm lược và ghóp phần quan trọng vào những chiến thắng quân sự và cuối cùng đánh bại quân Nhật vào năm 1598.

 

Vào thời “Biến loạn Nhâm Thìn” (임진왜란, 壬辰倭亂), Quốc vương Triều Tiên Tuyên Tổ (조선 선조, 朝鮮宣祖) đã ban Thánh chỉ phong Đại sư Tây Sơn chức “Tổng nhiếp Bát Đạo Đô” (팔도도총섭, 八道都摠攝), và hiệu triệu tăng sĩ Phật giáo toàn quốc nổi dậy kháng chiến chống Đế quốc Nhật xâm lược. Mặc dù trên cương vị “Tổng chỉ huy Bát đạo Tăng binh” (八道僧兵的總指揮, 팔도승병총지휘), nhưng do tuổi cao sức yếu, Ngài đã trao quyền Tướng thống lĩnh Chỉ huy Tăng binh cho đệ tử là Đại sư Duy Chính Tứ Minh (유정사명대사, 惟政泗溟大師).

 Đại sư Tây Sơn vị Cao tăng Dấn thân vào đường Cứu quốc-01

 

Thị tịch

 

Sau khi lãnh đạo các tăng sĩ chiến đấu chống lại quân xâm lược Nhật Bản thành công, Đại sư đã trao lại nhiệm vụ lãnh đạo này lại cho các đệ tử của mình và quay trở lại núi và chuyên tâm tu hành.

 

Vào ngày 23 tháng 1 năm 1604, với tuyết phủ xung quanh Am Viên Tịch (원적암, 圓寂菴), Diệu Hiền (묘향산, 妙香山), , tỉnh Pyeongan-do (平安道安州), Triều Tiên. Đại sư thuyết pháp lần cuối cho các môn đệ về công án “Tâm“ mà mình đã trọn đời tu tập. Và trao bức chân dung của mình cho các môn đệ và viết những lời cuối cùng:

 

“Tám mươi  năm trước, thứ đó chính là tôi. Tám mươi năm sau, và bây giờ tôi không còn là thứ đó“ (‘80년 전에는 그가 나이더니, 八十年前渠是我), 80년 후에는 내가 그로구나, 八十年後我是渠’).

 

Ngài ngồi kiết già trong tư thế hoa sen và thanh thản an nhiên Viên tịch. Hưởng thọ 84 tuổi, Giới lạp 67 Hạ. Đại Sư để lại nhiều tác phẩm Thiền học quý báu, trong đó tác phẩm Thiền Gia Quy Giám đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có bản tiếng Việt.

 

Đại sư đã đào tạo hơn 1000 môn đệ và trong số đó có hơn 70 nhân vật xuất chúng. Trong số những vị này, 4 môn đệ xuất sắc nhất là: Đại sư Tứ Minh (사명대사, 四溟大師, 1544 -1610), Thiền sư Tiên Dương Ngạn Cơ (편양언기선사, 鞭羊彦機禪師, 1581~1644), Đại sư Tiêu Dao Thái Năng (소요 태능대사, 逍遙 太能大師,  1562-1649), (정관일선대사, Đại sư Tĩnh Quán Nhất Thiền 靜觀 一禪 大師, 1533 -1608).

 

Những trước tác (저작, 著作) của Ngài lưu lại hậu thế:

 

“Thiền gia Quy Giám” (선가귀감, 禪家龜鑑)

“Nho gia Quy Giám” (유가귀감, 儒家龜鑑)

“Đạo gia Quy giám” (도가귀감, 道家龜鑑)

“Thiền giáo Thích” (선교석,  禪敎釋)

“Thiền giáo Quyết” (선교결, 禪敎訣)

“Tâm Pháp Yếu Sao” (심법요초, 心法要抄)

“Vân Thủy Đàn” (운수단, 雲水壇)

“Thuyết Thiền Nghi” (설선의, 說禪儀)

“Tam Lão Hành Tích “ (삼로행적, 三老行蹟)

“Thanh Hư Đường Tập” (청허당집, 淸虛堂集)

 

Đại sư Tây Sơn là một vị Thánh Tăng thị hiện trên mãnh đất đầy biến động của giai đoạn cuối thế kỷ 16 Triều Tiên, Ngài đã mồi ngọn đèn Thiền Đạt Ma, nối mạng mạch suối nguồn Tào Khê tuôn dòng chảy vô tận, Ngài là một trong những vị tỏa sáng ánh quang minh Từ bi, Trí tuệ, đại hùng đại lực của Phật giáo Hàn Quốc.

 

Sự thị hiện của Ngài chính là một đóa sen, nằm giữa ao bùn mà vẫn toả ngát hương, ngào ngạt khắp muôn phương. Đại sư Tây Sơn (서산대사, 西山大師 đã viên tịch thời gian bao thế kỷ, hành trạng cuộc đời và sự nghiệp của Ngài, thời gian trăm năm trôi qua, nhưng danh thơm tiếng tốt của Ngài mãi với non sông đất nước Hàn Quốc, trái tim của Ngài vẫn cùng nhịp thở với muôn vật và con người xứ Kim Chi.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Contents History)

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/07/2021(Xem: 7523)
Vì hiện nay tình hình phong tỏa tại Sài Gòn thật chặt chẽ, rất khó khăn cho chúng con, chúng tôi xin được Phép vào những khu vực cách ly để phát quà, vì vậy chúng con, chúng tôi đã linh động quyết đinh giúp cho những hộ nghèo ở ngoại ô Sài Gòn, những bà con lao động tay chân, buôn thúng bán bưng.. Một khi SG LockDown dài hạn, tình hình kinh tế sẽ ảnh hưởng dây chuyền, vì vậy chúng tôi thiết nghĩ không riêng gì SG mà những vùng lân cận đều bị ành hưởng hết, vì vậy mong các vì hảo tâm hoan hỉ cho quyết đinh này của Hội Từ thiện chúng tôi.. Hôm qua, chúng tôi vừa thực hiện một đợt phát quà hỗ trợ cho 200 hộ nghèo. Kính mời quí vị đọc nguyên văn lời Tường trình của Ni Sư Huệ Lạc:
19/07/2021(Xem: 5625)
TÔI SẼ TRÌNH BÀY một tóm tắt nền tảng giáo lý của Đức Phật về Bốn Chân Lý Cao Quý – khổ đế (sự thật về khổ đau), tập đế (sự thật về nguồn gốc), diệt đế (sự thật về chấm dứt), và đạo đế (sự thật về con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ.) Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất. Nếu không có một sự thông hiểu về Bốn Chân Lý Cao Quý thì chúng ta không thể tiến hành sự học hỏi và thấu hiểu một cách đầy đủ về bản chất của thực tại phù hợp với Đạo Phật. Nhưng trước nhất, tôi muốn nói rõ rằng tất cả những tôn giáo quan trọng có cùng năng lực, cùng thông điệp và mục tiêu, qua đó tôi biểu lộ lòng mong muốn chân thành để mang đến những điều kiện tốt đẹp hơn cho thế giới, một thế giới hạnh phúc hơn với những con người từ bi hơn. Đây là những gì mà tất cả các tôn giáo quan trọng cùng chia sẻ.
18/07/2021(Xem: 4939)
Nơi gia đình chúng tôi sinh sống, có một nhóm người gốc BÌNH TRỊ THIÊN. Đặc tính cố hữu của bất cứ dòng tộc, quê quán nào khi người Việt đi đến đâu là luôn mang theo phong tục tập quán vùng miền cổ truyền nơi họ đã sinh ra. Đến nơi ở mới, họ cố gắng duy trì tập quán đó, vì họ thấy rất rõ phong tục tập quán chính là diền mối lễ nghĩa duy trì lễ giáo gia đình, duy trì nền nếp thiết lập hạnh phúc cho con cháu.
18/07/2021(Xem: 5139)
Tâm là một trong hai yếu tố thành lập nên con người. Tâm không phải là vật chất. Tâm trừu tượng, nên chúng ta không thể trông thấy hay sờ mó tâm được. Tuy tâm không có hình dáng như thân vật chất, nhưng không có nó thì con người không thể sống được. Tâm là những cảm xúc vui vẻ hạnh phúc, là những ưu tư phiền muộn, khổ đau, là những nhớ nhung suy nghĩ, là sự hiểu biết, là trí tuệ của con người. Những thứ này gom lại thành nguồn năng lượng sống tạo nên nhân cách của con người tốt hay xấu. Tùy theo năng lượng thiện hay bất thiện, từ đó tâm sẽ đưa ta đến cảnh giới tương ưng. Đó là cảnh giới an vui hay đau khổ, Niết-bàn hay địa ngục, Phật hay ma, tất cả đều do tâm tạo.
16/07/2021(Xem: 5023)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ:
14/07/2021(Xem: 4555)
Có một câu hỏi ngàn năm trước người ta đã đặt mà chưa có lời giải đáp thỏa đáng đó là “Tại sao tôi xấu, tôi nghèo, tại sao cuộc đời của tôi như thế này?” Các đạo thờ thần nói rằng đó là ý chỉ của Thượng Đế. Còn Đông Phương trước khi có Đạo Phật du nhập nói rằng đó là định mệnh do Trời-Đất an bài. Đã là ý chỉ của Thượng Đế hay định mệnh thì không thể cải sửa được như cụ Nguyễn Du đã nói: Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
12/07/2021(Xem: 6086)
Những “Tôn Giáo với lòng nhân từ” không thuộc về Thiên Chúa Giáo đã sớm được những nhà khoa học về Tôn Giáo của phương Tây chú ý theo dõi, đặc biệt vì song song với việc cải cách tư duy của Sola Gratia (chỉ cần nhân ái) và Sola Fide (chỉ qua niềm tin), được đặc biệt đáng chú ý. Cũng như vậy, Rudolf Otto trong quyển sách của ông ta nhan đề là “Tôn Giáo với lòng nhân từ của Ấn Độ và Thiên Chúa Giáo” (Gotha xuất bản năm 1930) theo chiều hướng của Ấn Độ Giáo, lòng nhân từ là điểm chính đã được đề cập đến, mà còn được xem là “sự cạnh tranh trọng yếu” của Thiên Chúa Giáo. Ngay cả học trò của Otto là Gustav Mensching cũng đã sẵn sàng dựa vào đó để tạo thành tác phẩm Tôn Giáo về hiện tượng Tôn Giáo.
11/07/2021(Xem: 6898)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
10/07/2021(Xem: 4906)
Nhà nước Trung Quốc đang bơm tiền cho chiến lược Nhất Đới Nhất Lộ, còn gọi là Con Đường Tơ Lụa Mới, ra sức đầu tư để ảnh hưởng vào gần 70 quốc gia và tổ chức quốc tế. Tiếng Anh gọi chiến lược gây ảnh hưởng này là "Belt and Road Initiative" và tiếng Việt gọi là "Một vành đai, Một con đường" -- trong đó, Phật Giáo là một phần tiếp cận để chinh phục nhân tâm. Đó là nhận định của tác giả P. Stobdan trên các báo Ấn Độ.
09/07/2021(Xem: 5461)
Soi sáng lời dạy của đức Phật là tựa đề tác phẩm tập hợp nội dung các bài giảng, các bài pháp thoại của Hòa thượng Pháp Tông trong những buổi giảng kinh ở một số khóa tu học Xuất gia gieo duyên những năm trở lại đây, hoặc trong các buổi giảng dạy định kì ở chương trình cùng tên vào mỗi sáng thứ bảy tuần thứ nhất và tuần thứ ba trong tháng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]