Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero, người Nổi tiếng Đương đại

31/10/202019:14(Xem: 4693)
Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero, người Nổi tiếng Đương đại

Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero,
người Nổi tiếng Đương đại

 Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero 1

Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961, vị tăng sĩ Phật giáo Sri Lanka, người kiến tạo Tu viện Phật giáo Mahamevnawa và Mạng lưới Truyền thông Shraddha. Ngài sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo, khi lên 6 tuổi cả gia đình Ngài đều quay về với đạo Tổ tiên Phật giáo.

 

Năm 1979, vào ngày 26 tháng 3, 17 tuổi xuân, Ngài đến ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara, miền đông Sri Lanka, đảnh lễ cầu xin xuất gia với Đại lão Hòa thượng Dambagasare Sumedhankara Mahā Thero, Trưởng của Sri Kalyaniwansa Nikāya và là Trụ trì ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara vào thời điểm đó. Và thụ giáo học Phật pháp với Trưởng lão Hòa thượng Dikwelle Pannananda Thero tại ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara.

 

Sau quá trình giáo dục đào tạo truyền thống Phật học Sri Lanka, trong khi thành đạt học vị với Bằng Danh dự Sinhala tại Đại học Sri Jayawardhanapura, Ngài đã có một cơ hội du ngoạn trong rừng thiền thăm thẳm, tung tăng lướt sóng trên biển Pháp mênh mông, Tam tạng giáo điển Pāli; bởi tâm nguyện chuyên tâm đèn sách đọc Tam tạng Thánh điển Phật học, Ngài đã từ bỏ cuộc sống chốn tòng lâm và bắt đầu ẩn tu nhập thất trong rừng sâu núi thẳm, dâng hiến cuộc đời mình cho Đạo pháp và Dân tộc.

 

Sau đó, đã có được kiến thức uyên thâm về Giáo pháp trong nghiên cứu Kinh tạng Pāli suốt thời gian 10 năm, Ngài đã thu thập được vô số kinh nghiệm trong cuộc đời của mình khi sống yên trên dãy Hy Mã Lạp Sơn ở Ấn Độ và rừng sâu núi thẳm Sri Pada ở Sri Lanka.

 

Đã vững tiến bước trên lộ trình giác ngộ giải thoát, và thực hiện đại nguyện hoằng dương chính pháp, thắp sáng ngọn lửa từ bi, trí tuệ, hùng lực của chư Phật, chư Tổ, Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero đã thành lập Tu viện Phật giáo Mahamevnawa vào tháng 8 năm 1999 tại Waduwava, Polgahawela, tây bắc Sri Lanka. Ngài vân du đó đây khắp nơi để kết duyên Bồ đề quyến thuộc Phật pháp ở nhiều nơi khác nhau trên quốc đảo Phật giáo Sri Lanka, Ngài đã tạo cho người dân tự phát huy chánh tín, niềm tự tin, đức tự chủ, mang lại niềm an lạc trong cuộc sống.

 

Ngài đã kiến tạo chi nhánh Tu viện Phật giáo Mahamevnawa, hiện có 58 tu viện chi nhánh tại Sri Lanka, và 28 tu viện ở các quốc gia, Canada, (3 ngôi) Hoa Kỳ, (4 ngôi) Úc, (5 ngôi) Vương quốc Anh,  (6 ngôi) Đức (7 ngôi) Ý, Dubai, Hàn Quốc và Ấn Độ.

 

Ngài đã trước tác hơn 300 tác phẩm bằng tiếng Sinhala và nhiều cuốn sách khác bằng tiếng Anh.

 

Những cuốn sách Phật học đó cùng với những đĩa CD chứa những bài giảng bằng ngôn ngữ Sinhala, đã nhận được nhiều lời tán thán  ngưỡng mộ từ công chúng.

 

Những ấn bản dịch thuật Kinh tạng đơn giản của Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sang ngôn ngữ Sanhala văn phong thật trong sáng, giúp mọi người thuộc bất kỳ địa vị nào trong xã hội đều có thể đọc và hiểu được, là một công trình tuyệt vời bởi công cuộc hoằng pháp lợi sinh của Ngài.

 

Giảng dạy Giáo pháp Như lai mà không có những ý kiến cá nhân bất thường, bằng cách tuyên dương Diệu pháp của Đức Phật, là phẩm chất độc đáo trong công cuộc hoằng pháp xuất sắc của  Thượng tọa Kiribathgoda Gnānānanda Thero.

 Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero 2

Thông điệp của Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero

 

Những lời chúc phúc cát tường của Hòa thượng với những tư duy tuyệt hảo!

 

“Sự kiện hiếm hoi và tuyệt vời nhất đã xảy ra suốt 2.600 năm trong lộ trình lịch sử, sự xuất hiện của một nhà hiền triết trí tuệ siêu phàm, ‘Đấng Tự do Bình đẳng, Phật Thích Ca Mâu Ni’.

 

Trong cùng một thời đại, có một khát khao không nguôi trong con người, là tìm ra chân lý của cuộc sống, và để đạt được mục đích đó, họ đã thực hành nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, những người tha thiết như vậy đã may mắn được soi sáng bởi trí tuệ tối cao của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật tối cao đã đi tìm họ, và cho họ thấy sự thật của cuộc sống ẩn giấu theo một cách độc đáo mà chưa ai từng đi qua.

 

Đó là sự thật đáng kinh ngạc và cuối cùng mà Đức Phật đã khám phá ra. Một khi họ nghe được những lời vàng ngọc quý báu của Đức Phật, họ đã trở thành những nhà hiền triết thời bấy giờ, mang “Kỷ nguyên Vàng” cho Ấn Độ. Với những kim ngôn khẩu ngọc của Đức Phật, con người đã giải thoát mình khỏi những nỗi khổ niềm đau. Họ đã học cách đối mặt với những thử thách trong cuộc sống của mình mà không đau lòng, và cuối cùng đã cố gắng tuyên bố rằng, họ đã đi đến tận cùng của Luân hồi – Vòng sinh tử.

 

Đức Phật, với tột cùng từ bi tâm của mình, đã cứu chúng sinh thoát khỏi khổ ải sông mê. Đây là thời điểm thành công nhất và đẹp nhất từng xảy ra trong lịch sử gần đây. Mức độ thông minh của con người trong thời đại chúng ta kém hơn so với trí tuệ của con người thời Đức Phật. Họ rất tiến bộ về lý luận và chiêm nghiệm về cuộc sống và không  bị mắc kẹt bởi những thị hiếu đơn giản, giả dối của cuộc sống . . . không giống như thời điểm hiện tại.

Đức Phật tối cao đã diễn thuyết về những cách khác nhau để nhận ra con đường bằng trí tuệ, bằng cách bác bỏ những huyền hoặc của cuộc sống, với những lời giải thích đúng đắn từ “thuyết Nhân quả”. Đạo Phật là tập hợp của những bài kinh cao quý như thế, Giáo pháp, đã đánh thức trí tuệ chân chính của nhân loại thời bấy giờ.

 

Sau khi Đức Phật Nhập diệt, tất cả các đệ tử cao quý (Tăng đoàn) của Ngài, những người đã đạt được Giác ngộ, đã bảo vệ Giáo pháp cho tương lai bằng ngôn ngữ 'Magadhi' (Pali), được sử dụng vào thời Đức Phật tại Ấn Độ. Tăng đoàn cao quý đã trở thành Sứ giả Như Lai, và truyền bá chính pháp Phật đà, tỏa sáng ánh đạo vàng Từ bi, Trí tuệ, Hùng lực khắp thế giới.

 

Sứ mệnh quan trong này đã được thực hiện, và chỉ đạo bởi vị anh minh Hoàng đế Phật tử, Đại hộ pháp Ashoka vĩ đại, vị vua thứ ba của vương triều Maurya thời Ấn Độ cổ đại, trị vì Ấn Độ từ năm 273 đến 232 trước CN. Là một trong những vị Anh minh Hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ, Ashoka đã toàn thắng trong loạt các cuộc chinh phạt và cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng từ thuở mới lên ngôi, ông được mệnh danh là Quốc vương Ashoka bạo ác, ông lập ra những khung hình phạt tàn ác giống như các cảnh mô tả trong địa ngục để hành hình tội nhân, và ông đặt tên cho các ngục ấy là địa ngục trần gian. Về sau ông Quy y Tam Bảo và ông đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni và theo truyền thống Phật giáo, tên ông gắn liền với việc lưu truyền Phật giáo.

 

Theo sau cuộc Kết Tập Kinh Điển lần thứ 3 (năm 254 TTL), Quốc vương Ashoka đã cử nhiều phái đoàn hoằng pháp ra nước ngoài như Sri Lanka, Myanmar, Malaysi và Sumatra. Ngoài việc chăm lo đời sống ấm no cho người dân, thương dân như con cái, Quốc vương Ashoka còn chăm lo truyền bá ánh sáng của Chính Pháp đến cho dân chúng trong và ngoài xứ Ấn. Quốc vương Ashoka đã hướng dẫn hai người con Hoàng thái tử Mahinda và Công chúa Singhamiha xuất gia làm tăng ni, gia nhập tăng đoàn tu học và sau đó được gởi sang Sri Lanka để hoằng pháp vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 TTL. Phái đoàn hoằng pháp do nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha dẫn đầu đến Sri Lanka để truyền đạo, đã mang theo Tam tạng Thánh giáo và một cây Bồ Đề để trồng tại Sri Lanka, cây Bồ Đề này hiện nay vẫn còn và là một biểu tượng thiêng liêng cao quý đối với Phật tử Sri Lanka. Phái đoàn hoằng pháp này đã thành công khi cảm hóa được đức vua Sri Lanka là Devanampiya Tissa tin theo Phật Pháp và trở thành người hộ trì Chính Pháp tại Sri Lanka qua việc phát tâm xây dựng một Đại Tự (Mahavihara) ở thủ đô Anuradhapura, mở đầu cho việc truyền bá ánh sáng Chánh Pháp trên xứ sở này, để rồi sau đó Phật Pháp được lan tỏa đến Myanmar,Thái Lan và những quốc gia Á Châu khác.

 

 

Như đã nêu trên, nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha được kính trọng nhất, các Ngài đã cung cấp những giáo lý nguyên thủy của Đức Phật Tối cao cho Tổ tiên của chúng ta. Nhị vị Thánh tăng này đã hướng dẫn tổ tiên của chúng ta xuất gia và dự vào hàng ngũ Tăng đoàn. Các đệ tử tại gia cũng đã học Phật pháp và ứng dụng thực tiễn những lời vàng ngọc quý báu của Đức Phật trong cuộc sống thường nhật của họ. Sứ mệnh của nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha đã thành lập Phật giáo Sri Lanka, và bảo đảm sự tồn tại của Chính pháp Phật đà cho nhiều thế hệ tương lai.

 

Thời gian trôi qua, những thay đổi nhiều, đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, giáo dục và tôn giáo ở mọi nơi trên thế giới. Kết quả là, Phật giáo nguyên thủy và tính thực tiễn của các Phật giáo đồ đã biến mất. Nhưng may mắn thay, những lời dạy quý giá nhất của Đức Phật do nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha truyền lại cho chúng ta và đã được bảo vệ an toàn.

 

Mặc dù tính thực dụng trong Phật giáo của mọi người bắt đầu mờ nhạt, nhưng mọi người vẫn kiên trì tìm kiếm điều gì đó tốt hơn, và thực tế hơn cho bản thân. Hiện nay, công chúng không quá quan tâm đến việc tìm kiếm sự thật về cuộc sống so với thời đại của Đức Phật, nhưng vẫn có một số dân trí quan tâm đến việc điều tra mặt trái của cuộc sống. Tôi đã cố gắng rất nhiều để nghiên tầm tam tạng giáo điển, đối mặt với nhiều thách thức trên hành trình khám phá sự thật cuối cùng này. 

 

Tôi rất diễm phúc khi được đọc đầy đủ giáo pháp cao quý của Đức Như Lai – Sự kế thừa vinh quang của nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha. Đạo Phật là một kho tàng trí tuệ kỳ diệu nhất trên thế giới. Những kim ngôn khẩu ngọc giáo huấn của Đức Phật ban truyền cho chúng ta thấy tài năng bao la, từ bi tâm, hoàn toàn tự giác, tâm hồn trong sáng, trí tuệ tỏa sáng như ánh Nhật Nguyệt và danh tính vô song của người xuất chúng từng xuất hiện trên hành tinh này. Như vầng Nhật Nguyệt tỏa chiếu cùng khắp không gian, thời gian, siêu việt số lượng, phản ảnh một thực tế; sự độc nhất của Như Lai (một trong nhiều danh hiệu đã được dùng để xưng hô với Đức Phật Tối Cao).

 

Năm 1999, tôi bắt đầu một buổi lễ Khánh  thành “Tu viện Phật giáo Mahamevnawa”, như một món quà của buổi lễ tưởng niệm cho sứ mệnh cao cả của nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha. Khi chúng tôi bắt đầu thuyết giảng Giáo pháp từ bi, trí tuệ, hùng lực của Đức Phật, các nhóm dân trí từ khắp nơi trên quốc đảo Phật giáo này đã tụ tập xung quanh chúng tôi, với sự quan tâm ngày càng cao đối với sự thật cuối cùng này. Chúng tôi khuyến khích lòng trung hiếu chỉ tại sự thật đúng đắn mà Đức Phật đã kiên trì chỉ dẫn cho chúng ta. Nếu ai đó tôn trọng và thờ phụng Giáo pháp, phát triển quan điểm sống theo Giáo pháp và thực sự sống theo Giáo pháp, thì người Phật tử mong muốn chân lý, hiển hiện chân lý (Phật tính) của tự thân mỗi người là đủ.

 

Tôi chào mừng tất cả quý vị đến với tổ chức “Tu viện Phật giáo Mahamevnawa” với từ bi tâm. Trong dịch vụ Giáo pháp của chúng tôi, chúng tôi không có giới hạn nào về tuổi tác, chủng tộc, quốc tịch, vùng miền, giới tính, màu da, tôn giáo. Sự thật (Diệu đế, Chân lý) được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khai thị rộng khắp cho tất cả mọi người. Nếu quý vị phát trí để hiểu sự thật đó, thì sự thật đó là dành cho quý vị, dành cho quý vị nhiều lợi ích và sự bảo vệ an toàn cho của quý vị. Do đó, chúng ta hãy tập hợp xung quanh chân lý đó, Chính pháp Phật đà. Chúng ta hãy học nó, hiểu nó và áp dụng thực tiễn trong cuộc sống thường nhật, phù hợp với nó.

 

Hiện tại, nhiệm vụ cao cả của chúng ta là chia sẻ món quà tuyệt vời của Giáo pháp Như Lai, suối nguồn từ bi tấm mát cho nhân gian, ánh sáng trí tuệ tỏa chiếu sưởi ấm khắp nhân gian, đại hùng đại lực giúp nhân thế dứt sự sợ hãi, giải phóng hết tất cả nỗi khổ niềm đau, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cầu mong cho tất cả quý vị được gia trì bởi Đức Phật Tối cao, Giáo pháp siêu phàm, và Tăng đoàn Cao quý, những người bạn hữu cao quý trong Giáo pháp, và tất cả các Bản tôn!

 

Hòa thượng Kiribathgoda Gnanananda Thero

 

Thích Vân Phong biên dịch

 (Nguồn: Serene Colombo)

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2021(Xem: 6311)
Ở bên Ấn Độ thời xưa Có ông trưởng giả rất ư là giàu Nhưng mà keo kiệt hàng đầu Cho vay nặng lãi, nào đâu thương người,
19/11/2021(Xem: 4428)
Được tin quý Thầy Tuệ Sỹ, GS Trí Siêu Lê Mạnh Thát và nhiều vị tôn túc sẽ thực hiện một Đại Hội Hội Đồng Hoằng Pháp qua Zoom vào cuối tháng 11/2021, lòng con vui mừng xiết bao. Đó là những gì mà con, trong cương vị một người học Phật, đã chờ đợi từ lâu, từ rất lâu, từ nhiều thập niên, từ khi biết say mê tu học. Bản thân con không có học vị cao, duy chỉ nhiệt tâm ngày ngày tu học, tự biết rằng còn rất nhiều kinh luận cần phải đọc, cần phải học, cần phải nghiền ngẫm và cần phải chứng nghiệm, do vậy niềm vui này không thể nào kể xiết.
16/11/2021(Xem: 10118)
Hạnh phúc luôn là “KPI” của mỗi người và mỗi quốc gia. Mỗi người hạnh phúc sẽ góp phần xây nên một một quốc gia hạnh phúc. Vậy quốc gia nào hạnh phúc nhất thế giới? Hãy cùng mayvesinhmienbac.com.vn gọi tên top 10 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới trong năm 2021 nhé!
14/11/2021(Xem: 5778)
Vào ngày 11 tháng 11 vừa qua, Cư sĩ Mã Anh Cửu, cựu Tổng thống Đài Loan và đoàn tùy tùng của ông đã thân lâm viếng thăm Phật đà Kỷ niệm quán (佛陀紀念館), và thưởng ngoạn "Triển lãm đặc biệt Con đường Hải tuyến Phật giáo & Nghệ thuật Truyền thông Mới" (佛教海線絲綢之路&新媒體藝術特展) và kịch trường tương tác 360 độ để có tự thân trải nghiệm. Sau chuyến thăm thực tế này, Cư sĩ Mã Anh Cửu nói rằng, trước đây ông đã nghe nói về cuộc triển lãm này, quả thật là "Thật tuyệt vời!"
14/11/2021(Xem: 21671)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 13645)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
12/11/2021(Xem: 6891)
Cao nguyên Tây Tạng, ngoài Bắc cực và Nam cực, là bồn chứa băng tuyết to lớn nhất, và thường được xem là "Cực Thứ ba". Tây Tạng là nguồn cung cấp nước cho một số sông to lớn nhất trên thế giới, trong số đó gồm có sông Brahmaputra, sông Hằng, sông Indus, sông Mê-kông, sông Salween, sông Hoàng hà và sông Trường giang. Các con sông đó là nguồn sống, bởi vì chúng cung cấp nước uống, dẫn nước vào các hệ thống thủy lợi, giúp việc canh tác và sản xuất thủy điện, cho gần hai tỉ người trên khắp các vùng Á châu. Nhiều băng hà trên Tây Tạng tan thành nước, các công trình xây đập và đổi hướng sông ngòi, kể cả việc phá rừng quy mô đã khiến các hậu quả tạo ra bởi thái độ tắc trách về môi trường, ngày càng lan rộng khắp nơi.
09/11/2021(Xem: 5638)
Gần đây, tôi đã nhận lời mời của đài truyền hình trực tuyến quốc nội "thử niệm" (此念) để chia sẻ về Triết lý Giáo dục “tăng trưởng cuộc sống" (生命成長), trong hàng loạt bài Triết lý Giáo dục của Tôi. Sau đây là nội dung của cuộc phỏng vấn.
09/11/2021(Xem: 9997)
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành thiền quán tập trung 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thực hành Tứ Niệm Xứ, giúp người tu có được cái nhìn sâu sắc về vô thường, từ đó loại bỏ được những phiền não trong cuộc sống hàng ngày.
09/11/2021(Xem: 5565)
Điều đầu tiên chúng ta nhận thức vật chất, phải thông qua cơ thể của chính mình. Thậm chí có thể nói rằng, con người biết đến sự tồn tại của ý thức, thông qua cảm giác của thân thể. Ảnh hưởng của thân thể lên ý thức là điều hiển nhiên, giống như sự khó chịu và đau đớn do bệnh tật gây ra, khiến chúng ta nhận thức được sự tồn tại khách quan của tứ khổ sinh, lão, bệnh, tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]