Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân vật Phật giáo Nổi tiếng Vương quốc Scotland Đương đại “Cư sĩ Stephen Batchelor”

15/10/202013:21(Xem: 6815)
Nhân vật Phật giáo Nổi tiếng Vương quốc Scotland Đương đại “Cư sĩ Stephen Batchelor”

Nhân vật Phật giáo nổi tiếng

Vương quốc Scotland Đương đại “Cư sĩ Stephen Batchelor

 Cư sĩ Stephen Batchelor 1

Cư sĩ Stephen Batchelor, một nhà văn Phật giáo đương đại, nổi tiếng với cách tiếp cận thế tục hay bất khả tư nghì đối với Phật giáo.

 

Cư sĩ Stephen Batchelor coi Phật giáo là một nền văn hóa không ngừng phát triển của sự giác ngộ hơn là một hệ thống tôn giáo, dựa trên những giáo điều và niềm tin bất biến. Đặc biệt, ông tôn trọng các giáo lý về nghiệp báo và tái sinh để trở thành những đặc điểm của nền văn minh Ấn Độ cổ đại, và không nội tại đối với điều Đức Phật dạy.

 

Phật giáo đã tồn tại hơn 25 thế kỷ qua bởi khả năng tái tạo lại chính nó, và luôn thích nghi với nhu cầu của các xã hội châu Á khác nhau, nó đã tương tác sáng tạo trong suốt lịch sử của nó. Khi Phật giáo tiếp cận thế giới hiện đại, nó bước vào một giai đoạn phát triển mới quan trọng. Thông qua các tác phẩm, bản dịch của mình, Cư sĩ Stephen Batchelor đã tham gia vào một cuộc thăm dò quan trọng về vai trò của Phật giáo trong thế giới hiện đại.

 

Cư sĩ Stephen Batchelor sinh ngày 07 tháng 04 năm 1953, tại thành phố Dundee, Vương quốc Scotland. Vừa lên 3 tuổi, gia đình ông chuyển đến Toronto, Ontaria, Canada, nơi cha mẹ ông đã ly hôn. Ông trở về với mẫu thân là cụ bà Phylli (1913) và người anh trai Dvid (1955) ở Watford, Hertfordshire, phía bắc London, Vương quốc Anh.

 

Sau khi hoàn thành chương trình giáo dục trung học tại trường Watford Grammar, vừa tròn 18 tuổi thanh xuân, vào tháng 02 năm 1972, ông bắt đầu chuyến du hành đó đây cầu học, trên hành trình cuối cùng ông hành hương chiêm bái đất Phật Ấn Độ.

 

Cư sĩ Stephen Batchelor định cư tại Dharamsala, Ấn Độ, nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma đang sống lưu vong, và cầu học Phật pháp với Tôn giả Geshe Ngawang Dhargyey (1925-1995) tại Thư viện các tác phẩm và lưu trữ Tây Tạng (LTWA). Năm 1974, ông xuất gia dự vào hàng Thích tử dự vào hàng tăng sĩ Phật giáo theo truyền thống Gelug - Hạnh Đức và còn được gọi là dòng Hoàng Mão (Mũ Vàng) Do Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 hiện nay trì giữ. Vài tháng sau khi thọ Tỳ kheo giới, ông dự một khóa nhập thất chuyên tu thiền Vipassana 10 ngày với vị giáo thọ sư Ấn Độ SN Goenka, đã chứng minh một ảnh hưởng lâu dài về thực hành của ông, và khơi dậy sự tìm hiểu nghiên cứu của ông về các truyền các truyền thống khác nhau của Phật giáo.

 

Năm 1975, ông rời Ấn Độ để học triết học và giáo lý Phật giáo dưới sự hướng dẫn của Tôn giả Geshe Rabten (1921-1986), lần đầu tiên tại tu viện Phật giáo Tây Tạng ở Rikon, Thụy Sỹ, sau đó ở Le Mont Pelerin, Thụy Sỹ, nơi Tôn giả  Geshe Rabten kiến tạo và thành lập trung tâm Rabten Choeling theo mô hình tu viện Phật giáo Kim Cang thừa và là trung tâm tu học dành cho người xuất gia và tại gia, tọa lạc tại thành phố Mont Pèlerin, Thụy Sỹ (nay là Rabten Choeling).

 

Năm 1979, ông chuyển đến Cộng hòa Liên bang Đức để làm phiên dịch cho Tôn giả Geshe Thubten Ngawang (1932-2003) tại Viện Tibetisches, Hamburg. Tôn giả Geshe Thubten Ngawang, một trong những vị Đạo sư vĩ đại của Phật giáo Tây Tạng, một số người vẫn nhận được sự giáo dục của Ngài ở Tây Tạng cổ đại. Ngài là Giám đốc tâm linh của Trung tâm Tâm linh Tây Tạng từ năm 1979 cho đến khi Ngài viên tịch vào tháng 01 năm 2003.

 

Vào tháng 04 năm 1981, ông sang Hàn Quốc và đến Tổ đình Tăng Bảo Tòng Quảng Tự (Songwangsa), Phường Songgwang Thành phố Sooncheon, tỉnh Jeollanam-do, đảnh lễ cầu pháp với Thiền sư Kusan Suryeon (구산수련-九山秀蓮, 1908-1983).

 

Tại Tổ đình Tăng Bảo Tòng Quảng Tự, ông đã kết duyên bồ đề quyến thuộc Phật pháp với Ni cô Martine Fages disrobed một người Pháp đã xuất gia vào năm 1975. Ông  ở lại Hàn Quốc cho đến mùa thu năm 1984, khi ông đi hành hương đến các danh lam thắng cảnh Phật giáo Nhật Bản, Trung Quốc và Tây Tạng.

 

Vào tháng 02 năm 1985, ông đã hoàn tục và kết hôn với nàng Martine Fages disrobed tại Hồng Kông, sau đó trở về Anh quốc và gia nhập cộng đồng Bắc Sharpham ở gần thị trấn Totnes, Devon, một hạt lớn ở Tây Nam Vương quốc Anh.

 

Trong suốt 15 năm, Cư sĩ Stephen Batchelor sống tại ngôi làng Sharpham, ông trở thành Điều phối viên của Sharpham Trust (1992) và là người đồng sáng lập Sharpham College for Buddhist Studies và Contemporary Enquiry (1996). Trong suốt thời gian này, ông làm việc với tư cách là một giáo sĩ Phật giáo tại Nhà tù HM, Channings Wood, ở ngôi làng Denbury (gần Newton Annot), Devon, Vương quốc Anh. Nhà tù này được điều hành bởi Dịch vụ Nhà tù của Nữ hoàng Anh.

 

Từ năm1990, ông là một giáo thụ hướng dẫn tại trung tâm thiền định Gaia House ở Devon và từ năm 1992, ông là một biên tập viên đóng góp cho Tạp chí Tricycle: The Buddhist Review.

 

Vào tháng 08 năm 2000, ông và nàng Martine Fages disrobed chuyển đến Aquiaine, một vùng của Pháp quốc, nơi họ sống trong ngôi làng nhỏ gần Bordeaux, một thành phố cảng quan trọng của Pháp quốc.

 

Tại tư gia, ông theo đuổi công việc của mình như vị học giả, nhà văn và nghệ sĩ. Trong vài tháng mỗi năm, ông vân du đó đây khắp thế giới để lãnh đạo các khóa tu thiền định, và dạy giáo lý Phật đà (xem lịch biểu). Ông càng quan tâm giáo lý Phật giáo Nguyên thủy tạng Pali. Ông là một thành viên cốt lõi của khoa Bodhi College, trong đó tập trung vào giải thíhc căn văn bản Phật giáo Nguyên thủy, chẳng hạn như tam tạng giáo điển Pali, theo cách thức áp dụng cho thế giới hiện đại.

 

Ông là người phiên dịch và là tác giả của nhiều sách khác nhau (xem sách) và các bài viết về Phật giáo (xem Ấn phẩm) bao gồm sách Phật giáo bán chạy nhất như the bestselling Buddhism Without Beliefs (Riverhead 1997 and Living with the Devil: A Meditation on Good and Evil (Riverhead, 2004). His most recent publication is Confession of a Buddhist Atheist (Spiegel&Grau, 2010).

 

Ông cũng là một thành viên của Hội đồng Tư vấn cho Trung tâm thực hành Phật giáo thực dụng.

 

Các tác phẩm trước tác:

 

- Batchelor, Stephen (editor). The Jewel in the Lotus: A Guide to the Buddhist Traditions of Tibet. Wisdom Publications, 1986. ISBN 0-86171-048-7.

 

- Batchelor, Stephen. The Tibet Guide. Foreword by the Dalai Lama. Wisdom Publications, 1987. ISBN 0-86171-046-0. (Revised edition: The Tibet Guide: Central and Western Tibet. Wisdom Publications, 1998. ISBN 0-86171-134-3.)

 

- Batchelor, Stephen. The Faith to Doubt: Glimpses of Buddhist Uncertainty. Parallax Press, 1990. ISBN 0-938077-22-8.

 

- Batchelor, Stephen. Alone with Others: An Existential Approach to Buddhism. Foreword by John Blofeld. Grove Press, 1994. ISBN 0-8021-5127-2.

 

- Batchelor, Stephen. The Awakening of the West: The Encounter of Buddhism and Western Culture. Foreword by the Dalai Lama. Echo Point Books & Media, 2011. ISBN 0-9638784-4-1.

 

- Batchelor, Stephen. Buddhism Without Beliefs. Riverhead Books, 1997. ISBN 1-57322-058-2.

 

- Batchelor, Martine. Meditation for Life. Photography by Stephen Batchelor. Wisdom Publications, 2001. ISBN 0-86171-302-8.

 

- Batchelor, Stephen. Living with the Devil: A Meditation on Good and Evil.. Penguin Books/Riverhead Books, 2005. ISBN 1-59448-087-7.

 

- Batchelor, Stephen. Confession of a Buddhist Atheist. Random House, 2010. ISBN 0-385-52706-3.

 

- Kusan Sunim. The Way of Korean Zen. Translated by Martine Fages Batchelor. Edited with an introduction by Stephen Batchelor. Weatherhill, 1985. ISBN 0-8348-0201-5. (2nd Revised Edition: Weatherhill, 2009. ISBN 1-59030-686-4.)

 

- Mackenzie, Vicki. "Life as a Question, Not as a Fact: Stephen Batchelor – author, teacher and skeptic." Why Buddhism? Westerners in Search of Wisdom. HarperCollins, 2003. ISBN 0-00-713146-1. pp. 142–62.

 

- Watson, Gay, Stephen Batchelor and Guy Claxton (editors). The Psychology of Awakening: Buddhism, Science, and Our Day-to-Day Lives. Weiser Books, 2000. ISBN 1-57863-172-6.

 

- Batchelor, Stephen. "A Secular Buddhism". Journal of Global Buddhism 13 (2012):87-107

 

- Batchelor, Stephen. After Buddhism: Rethinking the Dharma for a Secular Age. Yale University Press, 2015.

 

- Batchelor, Stephen. Secular Buddhism: Imagining the Dharma in an Uncertain World Yale University Press, 2017. ISBN 978-0-300-22323-1

Sách phiên dịch:

 

- Batchelor, Stephen. Verses from the Center: A Buddhist Vision of the Sublime. Riverhead Books, 2001. ISBN 1-57322-876-1. This is a translation of the Mūlamadhyamakakārikā (Fundamental Verses on the Middle Way) by Nagarjuna.

 

- Rabten, Geshé. Echoes of Voidness. Translated and edited by Stephen

Batchelor. Wisdom Publications, 1983. ISBN 0-86171-010-X.

 

- Rabten, Geshé. Song of the Profound View. Translated and annotated by

Stephen Batchelor. Wisdom Publications, 1989. ISBN 0-86171-086-X.

 

- Shantideva. A Guide to the Bodhisattva's Way of Life. Translated by Stephen Batchelor. Library of Tibetan Works and Archives, 1979. ISBN 81-85102-59-7.

 Cư sĩ Stephen Batchelor 2

Lip:

 

Join Stephen Batchelor for a talk on his latest book, The Art of Solitude

https://www.youtube.com/watch?v=qxoKU8uo2OU

 

Discussing Secular Buddhism with Stephen Batchelor

https://www.youtube.com/watch?v=2lIlsZwobDM

 

Stephen Batchelor: The Art of Solitude

https://www.youtube.com/watch?v=DKJgM2YEEdo

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: stephenbatchelor.org)

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2021(Xem: 6048)
LUẬN ĐIỂN CỦA ATISHA súc tích nhưng bao hàm rộng rãi đem những vấn đề cốt yếu đến với nhau của những giáo huấn của ba lần Chuyển Pháp Luân, như đưa ra một cách tóm tắt trong chương hai. Nó được sáng tác ở Tây Tạng bởi một đạo sư Ấn Độ là Atisha Dipamkara theo lời thỉnh cầu của Jhangchup Wö, sau đó là người cai trị miền tây Tây Tạng. Jhangchup Wö đặc biệt thỉnh cầu một giáo huấn thật sự nổi tiếng vì sự thậm thâm của nó cũng như trong sáng của nó, vì thế nó có thể làm lợi lạc cho dân tộc Tây Tạng nói chung. Atisha súc động sâu xa và hoan hỉ vì sự chân thành thỉnh cầu của Jhangchup Wö, và đáp ứng lời thỉnh cầu ấy ngài đã sáng tác ra luận điển súc tích này.
10/09/2021(Xem: 7786)
Thưa quý vị, Con virus corona đang khiến cả thế giới hoảng loạn chao đảo. Nhưng Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus... Mỗi ngày, con virus lần lượt phơi bày tất cả sự thật mà chúng ta từ lâu đã không có khả năng nhìn thấy hoặc cố tình quên đi. Mỗi ngày, nếu để ý, ta sẽ thấy mỗi diễn biến của nó đều điểm vào những sai trái mà con người đã bày ra khi đến thế giới này. Nó bóc trần lần lượt những dối trá, vốn luôn được che đậy kỹ càng. Giờ đây con người nhận ra không có gì dấu giếm được dưới ánh mặt trời.
08/09/2021(Xem: 6471)
Hành trình 10 năm ăn thuần chay của giáo viên trường tiểu học Luo Yuliang (小學羅裕良), nhằm mong muốn việc sinh nở của vợ được suôn sẻ. Thường nhật tại tư gia, đến bữa ăn vợ chồng thầy giáo luôn "Bên mâm cơm chay" (鍋邊素), cho đến khi cơ hội cho ba đứa trẻ cắp sách đến trường, chúng cũng được cung cấp các bữa ăn chay. Sau đó, đã mở ra một phong trào mới cho gia đình 5 nhân khẩu đều ăn hoàn toàn thuần chay.
06/09/2021(Xem: 5595)
Nữ cư sĩ Mazie Keiko Hirono Thượng nghị sĩ Phật tử đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ Nữ cư sĩ Mazie Keiko Hirono Thượng nghị sĩ Phật tử đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ 1Hình 1: Cư sĩ Phật tử Mazie Keiko Hirono thời còn là cô bé với mẹ, tỉnh Fukushima, Nhật Bản, vào khoảng năm 1949. Ảnh: Mazie Hirono Đây là tự truyện do Nữ cư sĩ Mazie Keiko Hirono Thượng nghị sĩ Phật tử đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ kể rằng: "Được đặc ân và trách nhiệm khi tôi phục vụ người dân Hawaii tại Thượng viện Hoa Kỳ. Là một người nhập cư và trưởng thành trong hoàn cảnh khó khăn, tôi chưa từng bao giờ cảm nghĩ, đối với con đường quan lộ đến Thượng viện Hoa Kỳ. Đồng thời, những kinh nghiệm của tôi cho thấy những cơ hội có sẵn đáng kinh ngạc ở Mỹ, và thúc đẩy tôi mong muốn được đền đáp.
04/09/2021(Xem: 24806)
Thiền Sư Khánh Hỷ (1066- 1142) Đời thứ 14 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi Một vị Tăng Thống thời Vua Lý Thần Tông Đây là Thời Pháp Thoại thứ 281 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Bảy, 04/09/2021 (28/07/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 01:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 11:45pm (giờ Paris, France) - 03:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
02/09/2021(Xem: 4788)
Lại một quyển sách khác nữa được điểm, để giới thiệu đến với mọi người, nhất là những người ít có thời gian để đọc một quyển sách dày mấy trăm trang, thì đây là một bài giới thiệu tóm tắt về tác giả và tác phẩm. Sách dày 360 trang, nhưng nếu in hai mặt thì số trang chỉ bằng một nửa mà thôi. Bởi lẽ khi Lotus Media ở Hoa Kỳ tái bản năm 2020 do Uyên Nguyên trình bày, muốn làm cho quyển sách dịch ra Việt ngữ của Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải trang trọng hơn, để tỏ lòng với người đã khuất, cũng như muốn cho độc giả thâm nhập sâu hơn với ngôn ngữ của Thiền, nên mới cho chúng ta nhiều không gian thoáng mát như vậy, để khi đọc và khi gấp sách lại tư duy những lời dạy ngắn gọn, rất dễ hiểu của Thiền Sư Bankei Yotaku một cách sâu sắc hơn nữa.
02/09/2021(Xem: 5079)
Chánh là ngay thẳng. Tư (思) và Duy (惟) đều thuộc bộ tâm. Tư duy là quá trình vận hành của não bộ giúp con người suy nghĩ, xem xét, giải quyết những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Chánh Tư duy là suy nghĩ, xem xét, giải quyết đúng vấn đề. Người có chánh tư duy dễ dàng thực hiện thành công mục tiêu lý tưởng của mình. Hành trì chánh tư duy luôn đem lại chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, bởi tư duy là cơ bản của lời nói và của hành động
02/09/2021(Xem: 5339)
Phần này (32B) bổ túc cho bài viết “Tiếng Việt từ TK 17: nên mười tuổi và nên hoa” (phần 32) về hai cách dùng bình lang (tân lang, cây cau) và (đảo) Côn Lôn/Côn Nôn. Các dữ kiện cho thấy khuynh hướng lẫn lộn n và l đã từng xẩy ra cho đến ngày hôm nay. Trong tuần lễ soạn phần bổ túc (giữa tháng 8 năm 2021), người viết (Nguyễn Cung Thông/NCT) còn thấy trên các mạng truyền thông hiện tượng lẫn lộn n và l như trong các utube ở phần sau. Hi vọng loạt bài viết này là động lực cho người đọc tìm hiểu sâu xa hơn và khám phá nhiều điều thú vị về tiếng Việt phong phú của chúng ta.
02/09/2021(Xem: 5376)
PERRIS, California – Chùa Hương Sen hôm Chủ Nhật 29/8/2021 đã đón nhận 28 thùng kinh và sách Phật học để sẽ lưu giữ tại thư viện tương lai sắp xây của chùa. Trong đó, 20 thùng kinh và sách là từ Cư sĩ Tâm Diệu và nhóm bạn đạo Thư Viện Hoa Sen, 8 thùng kinh và sách là từ Cư sĩ Nguyên Giác.
01/09/2021(Xem: 5783)
Điểm sách: TÂM BẤT SANH Của Bankei Yotaku (Bàn Khuê Vĩnh Trác), do Peter Haskel viết bằng Anh ngữ qua việc tham cứu Nhật ngữ, Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]