Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lạt Ma Phật giáo Nổi tiếng, Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo vừa Viên tịch

15/10/202013:13(Xem: 6320)
Lạt Ma Phật giáo Nổi tiếng, Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo vừa Viên tịch

Lạt Ma Phật giáo Nổi tiếng, Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo vừa Viên tịch

(Renowned Buddhist Lama Ngawang Tenzin Jangpo Rinpoche Dead at 85)

 Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo

Ngài Lạt Ma Phật giáo Nổi tiếng, Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo, Phương trượng Trụ trì Tu viện Tengboche (Tengboche Monastery) và được mệnh danh là “tiếng nói tâm linh của vùng Khumbu”, Nepal đã viên tịch tại quê hương Namche Bazaar, Huyện Solukhumbu của Tỉnh số 1 phía đông bắc Nepal. Trụ thế 85 xuân.

 

Ngài được cung thỉnh ngôi vị Phương trượng Trụ trì Tu viện Tengboche từ năm 1956, nơi Ngài được nhiều thế hệ người Shepa biết đến, cũng như những người đi bộ và leo núi viếng thăm, những người đã nhận được sự chúc phúc cát tường từ Ngài khi họ đi qua Vườn Quốc gia Sagarmatha (Sagarmatha National Park) trong chuyến du hành. Ngài là một Tulku, được công nhận, hóa thân của Lạt Ma Gulu, người sáng lập Tu viện Tengboche.

 

Theo những người thân, Ngài được nhiều người kính trọng, đã xuống từ Tu viện Tengboche đến Namche Bazaar vào tuần trước “vì nơi đó trời trở lạnh”. Ngài đã an nhiên viên tịch, xả báo thân nhập Pháp thân vào đêm 9 tháng 10 năm 2020. (Nepali Times)

 

Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo sinh ngày 6 tháng 7 năm 1935 tại Thị trấn Namche Bazaar, Huyện Solukhumbu của Tỉnh số 1 phía đông bắc Nepal. Ngài sinh ra cùng ngày, tháng, năm với Đức Đạt Lai Lạt Ma 14.

 

Sau khi được công nhận là huyền bí của Phật giáo Tây Tạng là truyền thống tái sinh (tuku/reincarnation) và được giáo dục đào tạo tại Tây Tạng theo truyền thống Ninh Mã của Phật giáo Tây Tạng. Từ năm 1956, với thời gian 64 năm, Ngài trên ngôi vị Phương trượng Trụ trì Tu viện Tengboche ở vùng Khumbu, dưới chân núi Everest.

 

Theo các phương tiện truyền thông địa phương đưa tin rằng, các nghi lễ tang sự được tiến hành từ hôm thứ Hai, ngày 12 tháng 10 năm 2020, với nhục thân của Ngài, được bao bọc trong vải màu vàng, được chư tôn tịnh đức tăng già, môn đồ pháp quyến và các Phật tử cung nghinh về Tu viện Tengboch, nơi quàng nhục thân của Ngài trong 6 tuần, theo truyền thống Sherpa. Sau đó, chư tăng tại Tu viện Tengboch sẽ quyết định nên hỏa táng hy lưu giữ nhục thân của Ngài trong một bảo tháp.

 

Lãnh đạo cộng đồng Tashi Lhamu Sherpa cho biết: “Chúng tôi rất đau buồn và kính tiếc bởi sự từ giã trần gian của Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo, toàn bộ thung lũng Khumbu đang chìm trong tang tóc”.

 

“Đây là một sự mất mát lớn cho cộng đồng Tashi Lhamu Sherpa của chúng tôi và toàn bộ khu vực”. (Nepali Times)

 

Cô ấy nói thêm: “hy vọng rằng, Ngài sẽ tùy nguyện tái lai trở lại để tiếp tục hạnh nguyện Bồ tát đạo”. (Nepali Times)

 

Là “tiếng nói tâm linh của Khumbu”, Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo đã đưa ra những lời cảnh báo, được lặp đi lặp lại về hậu quả của biến đổi khí hậu đối với người dân vùng Hy Mã Lạp Sơn và hơn thế nữa.

 

“Ngày nay, nếu chúng ta không bảo vệ vùng Khumbu. Nước ngọt của chúng ta sẽ cạn kiệt, và vấn đề sẽ không thể giải quyết được trong tương lai”, Ngài đã viết một bài báo năm 2005, Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo nói với Quỹ quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (World Wide Fund for Nature, WWF)

 

Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo đã chỉ trích các cuộc thám hiển thương mại đến Everest. “Leo lên Everest đã trở thành mốt. Mọi người chỉ muốn đạt đến đỉnh cao”. Ngài viết “Người Sherpa Khumbu phải gánh chịu hậu quả từ lòng tham của con người. Đã đến lúc người Nepal bắt đầu nên bớt phụ thuộc vào người nước ngoài. Tại sao chúng ta cần những người nước ngoài đến đây và nói với chúng ta rằng các sông băng đang tan chảy”.

 

Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo là một nhà phê bình lớn tiếng về việc thương mại hóa đỉnh Everest – tiếng Tây Tạng gọi là Chomolungma, nghĩa là “Nữ thần Mẹ của Thế giới” và trong tiếng Nepal là Sagarmatha – như một điểm đến du lịch:

 

Nằm ở độ cao 3.867 mét, Tu viện Tengboche còn được gọi là Choling Gompa, là tu viện lớn nhất vùng Khumbu của miền đông Nepal. Ban đầu nó được thành lập vào năm 2016, có mối quan hệ chặt chẽ với Tu viện Rongbuk ở Tây Tạng. Nó nằm ở cuối Dự án Đường mòn Sacred Sites của Công viên Quốc gia Sagarmatha, nơi thu hút một lượng lớn khách du lịch.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: khumbule.com )

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2021(Xem: 7266)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6208)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 5770)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5738)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 7286)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4585)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9574)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5706)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5305)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6014)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]