Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ôn lại Lịch sử các Địa điểm khi Kazakhstan theo Phật giáo

09/10/202019:51(Xem: 6533)
Ôn lại Lịch sử các Địa điểm khi Kazakhstan theo Phật giáo

Ôn lại Lịch sử các Địa điểm khi Kazakhstan theo Phật giáo

(Historical Sites Recall When Kazakhstan Was Buddhist)

 Di tích PG Kazakhstan 3

Cộng hòa Kazakhstan ngày nay là một quốc gia chủ yếu theo đạo Hồi, nhưng Con đường Tơ lụa đi qua đây là một đường dẫn quan trọng cho các tôn giáo, bao gồm cả Phật giáo, một số tác phẩm chạm khắc và di tích lịch sử của nước Cộng hòa Kazakhstan ngày nay, không phải là đạo Hồi hay vật linh, mà là sự tôn kính đối với chư Phật, Bồ tát và chư tôn tịnh đức tăng già đã mang ánh đạo vàng Từ bi, Trí tuệ, Hùng lực và hạnh đức Như Lai từ Ấn Độ, Trung Hoa trên vùng đất Á-Âu.

 

Phật giáo đã thu hút được một lượng Phật giáo đồ ở Trung Á giữa thế kỷ thứ hai trước kỷ nguyên Tây lịch. Cho đến khi Hồi giáo đến khu vực này vào khoảng thế kỷ thứ 8, và nhiều dân tộc Turkish sống ở Kazakhstan đã áp dụng giáo lý đạo Hồi. Mặc dù hiện nay dân số theo Phật giáo của Kazakhstan rất ít, chỉ khoảng 0,4% dân số theo đạo Phật tính đến năm 2007, quốc gia Cộng hòa này có số lượng Phật tử lớn nhất ở Trung Á. Ánh đạo vàng Từ bi, Trí tuệ, Hùng lực và hạnh đức Như Lai đã hiện còn rải rác với những tàn tích quá khứ của Phật giáo, đặc biệt là khu vực Zhetysu (“7 dòng sông, seven rivers”) ở đông nam Kazakhstan ngày nay, bao gồm cả tháp Almaty ngày nay và theo lịch sử kéo dài sang Kyrgyzstan.

 

Trong khu vực đó là Tamgaly-Tas (vẽ hoặc nơi đánh dấu), một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất của Kazakhstan và nó đã trở thành một Di sản Thế giới của UNESCO vào năm 2004. Tamgaly là một trang địa điểm khảo cổ thuộc Semirechye, Kazakhstan. Tamgaly nằm cách Almaty 120 km về phía tây bắc. Phần lớn của địa điểm khảo cổ này là các bức tranh khắc đá 5000 năm trong các hẻm núi. Các bức tranh khắc đá chủ yếu là từ Thời đại đồ đồng, nhưng trong một số ít là có từ vào Thời đại đồ sắt và thời Trung Cổ. Trong các cảnh săn bắc và hình động vật có chạm khắc hình ảnh Đức Phật, chân ngôn thần chú Phật giáo bằng Phạn ngữ và hình ảnh của các bậc Đạo sư Phật giáo quan trọng.

 

Truyền thuyết địa phương kể rằng, một phái đoàn Phật giáo đã dừng lại bên bờ sông Ili (một con sông ở tây bắc Trung Quốc, Châu tự trị dân tộc Kazakh - Y Lê của Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương và đông nam Kazakhstan, tỉnh Almaty), dưới một số mỏm đá thì một trận động đất bất ngờ khiến một tảng đá rơi xuống từ vách đá gần họ. Để tỏ lòng tri ân trước sự giải cứu cho mình, họ đã tạo ra bức tượng Phật lớn nhất tại đây, quay mặt lên mặt trời từ một tảng đá lớn.

 

Những nơi khác tại Almaty, một tỉnh tọa lạc phía đông của Cộng hòa Kazakhstan, dòng sông Kora chảy qua những ngọn núi gần thị trấn Tekeli. Trong thung lũng sông gần đó là một tảng đá lớn hình kim tự tháp với các hình tượng Phật giáo được chạm khắc trên đó. Được bao quanh bởi một con đường đẹp đẽ, hình ảnh của tảng đá rất phức tạp, và phản ánh nhiều khía cạnh của Phật giáo Kim Cương thừa Tây Tạng. Có một bảo tháp, sư tử tuyết ôm bảo tháp (sư tử tuyết thường tượng trưng cho sự vui tươi, minh mẫn và không sợ hãi trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng), và các biểu tượng đại diện cho quan niệm Phật giáo về chu kỳ thời gian.

 

Đối tượng tôn kính là phiến đá khắc chạm hình ảnh Đức Phật, Phật tử du lịch hành hương thường chiêm bái, tọa thiền và đi nhiễu vòng quanh. Việc thực hành tôn giáo này có thể là một minh chứng cho thấy về sự ảnh hưởng văn hóa tâm linh giữa Phật giáo và Hồi giáo tại Kazakhstan: các giáo phái Sufis (chủ nghĩa Thần bí Hồi giáo) cũng đi bộ quanh các Thánh đường Hồi giáo. Họ có thể thiền định bằng cách sử dụng thần chú và theo dõi hơi thở, thường thực hành trong các cộng đồng nhỏ tập trung xung quanh một vị Đạo sư và tin vào sự tái sinh và một số khái niệm khác liên quan đến Phật giáo.

 

Một du khách, nhà leo núi và trưởng đoàn du lịch Andrey Gundarev, đã chỉ ra từ “kora”, cũng là tên của một dòng sông, có nghĩa là “uốn lượn quanh” hoặc “sự xoay vòng” trong tiếng Tây Tạng và đề cập đến việc công phu tu tập thiền định Phật giáo.

 

Cách di tích không xa là khu định cư Kayalys, tàn tích của thành phố Con đường tơ lụa từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 13, và là Di sản Thế giới từ năm 2014. Hiện nay chủ yếu là nền đất và đá, còn sót lại một số công trình tôn giáo, bao gồm cả một ngôi già lam cổ tự Phật giáo. . ., tại địa điểm này cách trung tâm khu vực Taldykorgan khoảng 200 km.

 

Có rất nhiều đồ tạo tác Phật giáo và đồ tạo tác khác vẫn được tìm thấy trên khắp lãnh thổ rộng lớn của Kazakhstan. Gần Sairam, thuộc phía nam Kazakhstan, một cấu trúc ngầm đã được phát hiện mà các nhà khoa học tin rằng, có thể là một ngôi già lam cổ tự Phật giáo vào thế kỷ thứ 6.

 

Hai khu di tích ít cổ hơn, có niên đại từ thế kỷ 17, được xây dựng theo lệnh của hai anh em: Các thủ lĩnh Kalmyk Ablai-taisha (?-mất 1674) và Ochirtu-taisha. (Người Kalmykias, còn được gọi là Dzungars, là một bộ tỗ rời Dzungaria ở phía tây bắc Trung Quốc vào năm 1607, và nắm quyền kiểm soát các phần của khu vực ngày nay là Kazakhstan).

 

Trong vườn quốc gia Karrakuly ở tháp Karaganda là tàn tích của ngôi già lam cổ tự Phật giáo ngày nay được goi là Cung điện Kyzyl Kénh, “Thành phố Đỏ” hay “Quặng đỏ” tại Kazakhstan, được đặt tên cho những bức tường của nó sơn đỏ. Nguồn gốc của tàn tích này vẫn chưa rõ ràng: một giả thuyết cho rằng, chúng là tàn tích của một ngôi già lam tự viện Phật giáo cổ đại; một người khác nói rằng, chúng là những gì còn lại của một tu viện Phật giáo vào thế kỷ 17 do Ochirtu-taisha, người sống ở đây thành lập. Một giả thuyết khác cho rằng, nguồn gốc từ thế kỷ 18 là một pháo đài được xây dựng bởi những người Kalmykas theo đạo Phật cố gắng giữ lãnh thổ của họ.

 

Theo một báo cáo trên trang web Culturemap.kz, khu di tích vẫn còn là một nơi nguy hiểm đối với cư dân địa phương, việc chạm vào chúng được cho là có thể mang lại các chết hoặc xui xẻo. Vào thế kỷ 20, một số bức tường vẫn còn đứng vững, nhưng ngày nay chỉ còn lại nền móng, mặc dù một số công việc trùng tu đã được thực hiện.

 

Không xa thành phố Ust-Kamenogorsk (thủ phủ của tỉnh Đông Kazakhstan, Kazakhstan) là một tập hợp tàn tích khác vào thế kỷ 17: Ngôi già lam cổ tự Ablaykyt, được hai anh em nhà lãnh đạo Kalmyk Ablai-Taisha (?-mất 1674) và Ochirtu-Taisha (1644-1678) xây dựng  từ những thập niên 1654 đến 1656, và đã bị phá hủy vào năm 1670. Chỉ còn lại bức tường đá bao quanh pháo đài cũ và địa điểm di tích Phật giáo cổ.

 

Một ngôi già lam cổ tự có liên quan hiện đã biến mất, nhưng vẫn tồn tại với tên gọi Tu viện Semey, trước đây là Semipalatinsk (“seven palaces”), được đặt tên cho ngôi già lam cổ tự Phật giáo bảy gian trên khu định cư của Dorzhinkit, nơi ngày nay là Semey. Các ngôi già lam cổ tự Phật giáo đã bị phá hủy vào cuối thế kỷ 17.

 

Các Tu viện Phật giáo Kalmyk đã từng phổ biến ở miền đông Kazakhstan và vùng Zhetysu, nhưng vì nhiều khu phức hợp Tu viện Phật giáo là bộ sưu tập của Yurts, nên chỉ  còn lại rất ít. Tuy nhiên, người Kalmyks đã mang theo tôn giáo đạo Phật của họ khi họ rời khỏi Kazkhstan: ngày nay, nước Cộng hòa Phật giáo Kalmykia, một khu vực bán tự trị của Nga, là quốc gia châu Âu duy nhất mà Phật giáo là một tôn giáo đa nguyên.

 

Mối liên hệ lịch sử giữa Kazakhstan và Con đường Tơ lụa

 

Từ quan điểm địa lý, lãnh thổ của Cộng hòa Kazakhstan hiện đại, tọa lạc ở giữa các hành lang lịch sử của Con đường Tơ lụa (Silk Road, 絲綢之路). Từ thuở ban đầu của lịch sử Con đường Tơ lụa vào thế kỷ thứ 3-2 trước kỷ nguyên Tây lịch, lãnh thổ của Cộng hòa Kazakhstan ngày nay, là một trong những khu vực đầu tiên chịu ảnh hưởng của những cuộc tiếp xúc thương mại, và văn hóa đầu tiên với các nền văn minh nằm cách xa Khu vực Trung Á.

 

Do đó, việc mô tả  chi tiết tất cả các mối liên hệ lịch sử giữa Kazakhstan và Con đường Tơ lụa đòi hỏi một nghiên cứu khoa học phức tạp nghiêm túc, sẽ là quá lu cho sự đóng góp này. Các tuyến đường Caravan hay các hành lang của Con đường Tơ lụa là một công cụ độc đáo để truyền tải các giá trị và đổi mới về kinh tế, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, quân sự và chính trị giữa các nền văn minh khác nhau trên khắp lục địa Á-Âu. Chỉ những cuộc chinh phạt quân sự và những cuộc di cư của các cộng đồng du mục trên lãnh thổ Âu-Á mới có ảnh hưởng ngắn hạn, có thể so sánh được đối với các loại hình giao lưu giữa các nền văn minh này cho đến kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện đại.  

 

Thích Vân phong biên dịch

(Nguồn: The Buddhist Channel)

  

 Di tích PG Kazakhstan 7Di tích PG Kazakhstan 6Di tích PG Kazakhstan 5Di tích PG Kazakhstan 4Di tích PG Kazakhstan 2Di tích PG Kazakhstan 1




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/07/2015(Xem: 24624)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 21292)
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là
01/07/2015(Xem: 11875)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
29/06/2015(Xem: 9755)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8342)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12357)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 31829)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 13318)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
23/06/2015(Xem: 12559)
Hơn hai mươi năm trước, khi đọc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nói về tiếng chuông Chùa Hàn San ở Tô Châu bên Trung Hoa, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao thơ Đường có không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác, vậy mà bài thơ chỉ bốn câu này lại gây ra bao nhiêu cuộc bút đàm tốn bao nhiêu giấy mực. Hay tại vì ngôi Chùa ở bến Cô Tô này đã quá nổi tiếng chăng? Nhưng đã ngờ thì phải cố mày mò tìm cho ra lẽ. Tôi tìm đọc thêm những câu chuyện chung quanh quả Đại hồng chung và tiếng chuông Hàn San. Nhiều huyền thoại đọc thật thú vị nhưng sao thấy nó cứ thực thực hư hư! Trong số ấy có một câu chuyện nói rằng, tiếng chuông chùa Hàn San có thể ngân vang rất xa, xa
21/06/2015(Xem: 7689)
Văn phòng Chính phủ Tây Tạng lưu vong, Dharamsala đưa tin – Hội nghị Tôn giáo lần thứ 12 của bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng đã diễn ra vào các ngày 18-20/06/2015 tại Dharamsala miền bắc của bang Himachal Pradesh, Tây Bắc của Ấn Độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]