Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khai mạc Triển lãm Đức Đạt Lai Lạt Ma Quang lâm nước Nga

03/10/202018:23(Xem: 6305)
Khai mạc Triển lãm Đức Đạt Lai Lạt Ma Quang lâm nước Nga

Khai mạc Triển lãm Đức Đạt Lai Lạt Ma Quang lâm nước Nga

(Photo Exhibition on His Holiness the Dalai Lama’s visits to Russia opens)

 Khai mạc Triển lãm Đức Đạt Lai Lạt Ma Quang lâm nước Nga-1

Hình 1: Hòa thượng Telo Tulku, Thượng thủ Giáo hội Phật giáo Cộng hòa Kalmykia (thuộc Liên bang Nga) và đại diện danh dự của Đức Đạt lai Lạt ma tại Nga và Mông Cổ, cùng các thành viên của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập, phát biểu khai mạc Triển lãm hình ảnh, nhân kỷ niệm Năm tri ân Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ảnh: OOT, Moscow

 

Matxcova: “Ba chuyến quang lâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma”, một cuộc triển lãm hình ảnh lưu động được khai mạc vào ngày 2/10/2020 tại ngôi đại già lam Phật Thích Ca Mâu Ni (Buddha Shakyamuni) tọa lạc tại Elista, thủ đô của nước Cộng hoà Kalmykia, một quốc gia cộng hòa thuộc Nga, nằm ở phía Nam Liên bang Nga, khu vực rìa Đông của châu Âu. Triển lãm được tổ chức nhân kỷ niệm 15 năm “Trụ trì ngôi đại già lam Phật Thích Ca Mâu Ni”.

 

Các tác phẩm được trưng bày trong triển lãm, mô tả chuyến quang lâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 tại nước Cộng hoà Kalmykia vào những năm 1991, 1992 và 2004. Bộ sưu tập ảnh thuộc về Cư sĩ Nikolay Boshev, Nhà Văn hóa Danh dự & Nhiếp ảnh gia của nước Cộng hoà Kalmykia.

 

Hòa thượng Telo Tulku, Thượng thủ Giáo hội Phật giáo Cộng hòa Kalmykia (thuộc Liên bang Nga) và đại diện danh dự của Đức Đạt lai Lạt ma tại Nga và Mông Cổ, cùng các thành viên của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập, đã chào mừng các đại biểu và khách mời. Trong bài phát biểu khai mạc, Ngài nhắc nhở tất cả rằng, năm nay Đức Đạt Lai Lạt Ma tròn 85 tuổi, và năm 2020 được các Phật tử trên khắp thế giới tuyên bố là “Năm tri ân Đức Đạt Lai Lạt Ma 14”, Quốc tế, và cuộc triển lãm này đặc biệt phù hợp với dịp này.

 

Trong bài diễn văn khai mạc, Hòa thượng Telo Tulku đã chia sẻ nhuữg khoảnh khắc đáng nhớ về các chuyến quan lâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại nước Cộng hòa Kalmykia, và cảm ơn Cư sĩ Nikolay Boshev, Nhà Văn hóa Danh dự & Nhiếp ảnh gia của nước Cộng hoà Kalmykia, nhiều năm phục vụ với nhiều công đức bằng cách tặng  cho ông “Chứng nhận Lama Shadjin”  và một chiếc khăn nghi lễ - khadak. Hòa thượng Telo Tulku nói “Tôi rất tôn trọng bởi những kỹ năng và tài năng của ông, những tác phẩm tuyệt vời và vì sự khiêm tốn của ông”.

 

Triển lãm “Ba chuyến quang lâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma” vẫn mở cửa và tất cả những người đến sẽ có thể thưởng ngoạn nó trên tầng hai của ngôi đại già lam Phật Thích Ca Mâu Ni (Buddha Shakyamuni) cho đến khi triển lãm sẽ được gửi đến các vùng khác của nước Cộng hòa Kalmykia.

 

Trong sự kiện này, một buổi giới thiệu ba cuốn sách mới cũng được tổ chức tại địa điểm: “Một cuốn album ảnh dành riêng cho “Năm Tri ân đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Kalmykia”;  Các vị tăng sĩ Phật giáo bị đàn áp vào những thập niên 1920-1930. Danh sách tên của các vị tăng sĩ Phật giáo Kalmykia và một cuốn sách với bộ sưu tập các bài cầu nguyện hàng ngày bằng ngôn ngữ Kalmykia.

 Khai mạc Triển lãm Đức Đạt Lai Lạt Ma Quang lâm nước Nga-2

Hình 2: Các bản sao đầu tiên của cuốn sách đã được tặng cho Hòa thượng Telo Tulku, Ảnh: OOT, Moscow

 

Một cuốn album ảnh được tạo ra bởi một nhóm nghệ sĩ Phật tử nhiếp ảnh do cư sĩ Viktor Pompave và cư sĩ Nikolay Boshev đứng đầu. Biên tập viên nghệ thuật, cư sĩ Dzhangar Tatninov, biên tập ảnh, cư sĩ Elena Bosheva, văn bản và chú thích được viết bởi Tiến sĩ Elza Bakaeva. Các bản sao đầu tiên của cuốn sách đã được tặng cho Hòa thượng Telo Tulku, cho Trụ trì ngôi đại già lam Phật Thích Ca Mâu Ni (Buddha Shakyamuni) và chư tăng.

 

Cuốn sách “Các vị Tăng sĩ Phật giáo bị Cộng sản đàn áp trong những thập niên 1920-11930. Danh sách tên của các vị Tăng sĩ Phật giáo Kalmykia” do Trung tâm Kalmyk Khurul phối hợp với Cơ quan Lưu trữ Quốc gia Cộng hòa Kalmykia pát triển. Cuốn sách này tiết lộ những sự thật chưa được biết, và xác định những vị tăng sĩ Phật giáo Kalmykia trước đây đã bị đàn áp và đã viên tịch. Cuốn sách này sẽ rất hữu ích cho các sử gia, nhà Phật học và các học giả tôn giáo.

 Khai mạc Triển lãm Đức Đạt Lai Lạt Ma Quang lâm nước Nga-3

Hình 3: Hòa thượng Telo Tulku, Thượng thủ Giáo hội Phật giáo Cộng hòa Kalmykia (thuộc Liên bang Nga) và đại diện danh dự của Đức Đạt lai Lạt ma tại Nga và Mông Cổ, cùng các thành viên của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập xem Triển lãm hình ảnh, nhân kỷ niệm Năm tri ân Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ảnh: OOT, Moscow

 

Sự kiện kết thúc với việc trình bày một cuốn sách tuyển tập những lời cầu nguyện hàng ngày. Cuốn sách đề cập đến cơ sở của việc thực hành Phật giáo bằng tiếng Kalmykia và tiếng Nga. Việc soạn thảo quyển sách này là do sự nỗ lực hợp tác giữa cư sĩ  Gennadyi Korneev, người đứng đầu Trung tâm phát triển ngôn ngữ Kalmykia, cư sĩ Yonten Gelung, Quản lý cấp cao của Trung tâm Kalmyk Khurul, và cư sĩ Dhzangar Kukeev. Cuốn sách được chia thành hai phần, phần đầu đề cập đến cơ sở của việc thực hành hàng ngày của các Phật tử, và phần thứ hai dành cho những lời khen ngợi và thần chú bí mật chân ngôn của Đức Phật.

 

Theo cư sĩ  Gennadyi Korneev, người đứng đầu Trung tâm phát triển ngôn ngữ Kalmykia, cuốn sách đã mất nhiều thời gian để thực hiện. Nó đã được dịch lại hoàn toàn trực tiếp từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Kalmykia và được sửa chữa mà không sử dụng các ngôn ngữ phụ trợ như trước đây.

 Khai mạc Triển lãm Đức Đạt Lai Lạt Ma Quang lâm nước Nga-4

Hình 4: Các nhà tài trợ cho cuốn sách Album ảnh cư sĩ Victor Pompaev và nữ cư sĩ Svetlana Pompaeva cầm một bản sao trong lễ kỷ niệm. Ảnh: OOT, Moscow

 

Các tác giả cho biết: “Làm việc trên cuốn sách này, chúng tôi đã tham khảo chéo với hơn 86 phiên bản của văn bản Tây Tạng thuộc các tập khác nhau,  tạo ra một từ điển bao gồm hơn 6.000 từ, thuật ngữ và khái niệm”.

 

Ngày nay, chúng ta chúng ta có thể nói, truyền thống phiên dịch, do Zaya Pandita thiết lập, đã được sống lại trên đất Kalmyk với sự chúc Phúc Cát tường và cầu nguyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 vĩ đại.

 

 Từ Văn phòng Tây Tạng lưu vong, Moscow

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Central Tibetan Administration)




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2013(Xem: 19487)
Những người dân Tây Tạng thân mến của tôi, ở cả trong lẫn ngoài đất nước Tây Tạng, cùng tất cả những ai đang tu tập theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng và những ai đang có những nối kết với Tây Tạng và người Tây Tạng.
10/12/2013(Xem: 19930)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc.
10/12/2013(Xem: 24994)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
10/12/2013(Xem: 9850)
Đây là một đề tài khá phức tạp và dễ bị hiểu lầm. Có câu nói: ‘Hành trình ngàn dặm khởi đầu bằng một bước đi (a journey of a thousand miles begins with a single step). Vì vậy, vấn đề cần phải nêu ra là khi nào và từ đâu chúng ta bắt đầu cất bước trên con đường tâm linh? Đa phần chúng ta đi tìm con đường tâm linh cho mình khá trễ. Trễ là do mình không cảm thấy nhu cầu cần thiết cho tâm linh lúc trẻ vì quan niệm rằng chùa chiền không thể nào giải quyết được những ưu phiền, đau khổ trong cuộc sống của tuổi trẻ. Chùa là dành cho những người lớn tuổi, xế chiều. Họ cần đến chùa là để vun bồi phước đức như làm việc thiện, bố thí, công quả .v..v… để ‘sau này’ được hưởng phước tốt lành.
09/12/2013(Xem: 7055)
Gia đình nghèo kia có ba người: Bố – Mẹ – và Con trai. Họ sống âm thầm và bình lặng trong một thôn làng hẻo lánh, người Bố đi làm thuê để kiếm cơm gạo nuôi gia đình, người mẹ lo việc bếp núc, trồng mấy luống rau, và chăm sóc con. - Một buổi trưa hè nắng nóng, người mẹ trên đường từ chợ về nhà chợt nhặt được một trái cam ai đó đánh rơi bên đường, cơn khát và mệt nhọc dường như tiêu tan khi bà nghĩ đến miếng cam ngọt lịm và mọng nước. Nhưng nghĩ đến đứa con ngoan ngoãn chẳng mấy khi được ăn hoa trái thơm ngon, bà liền lau sạch trái cam và cất vào túi.
09/12/2013(Xem: 8747)
Giáo lý đạo Phật không chỉ nói về những vấn đề “xuất thế”, mà Đức Phật cũng đã rất chú trọng về vấn đề “nhập thế” - hoàn thiện nhân cách trước khi đạt được thánh cách - giúp cho tất cả chúng ta một phương pháp ứng xử phù hợp với đạo lý làm người, tạo nên một nhân cách sống. Nhân cách sống đó, dù bất cứ ở đâu và bất cứ thời điểm nào, cũng có thể ứng dụng và mang lại những kết quả tốt đẹp...
09/12/2013(Xem: 8874)
Có thầy trò một nhà kia làm nghề hát xiệc. Người thầy là một người đàn ông góa vợ và người học trò là một cô gái nhỏ tên là Kathullika. Hai thầy trò đi đây đó trình diễn để kiếm ăn. Màn trình diễn của họ là người thầy đặt một thanh tre cao trên đỉnh đầu mình, trong khi bé gái leo dần lên đầu cây rồi dừng lại trên đó, để người thầy tiếp tục đi trên đất. Cả hai thầy trò đều phải vận dụng sự tập trung tâm ý đến một mức độ khá cao, để giữ thăng bằng và để ngăn chặn tai nạn có thể xảy ra.
09/12/2013(Xem: 8141)
Tự thủy uyên nguyên, khắp các loài chúng sanh cùng với Phật đồng một tâm, tức cái tâm tánh tuyệt đối, chơn thường, vắng lặng, trong trẻo, tròn đầy, trùm khắp, không lay không động, không đến không đi, không sanh không diệt, vô thỉ vô chung, cực linh cực mầu, hay sanh các pháp. Do Phật tâm thanh tịnh, vắng lặng, huyền mầu, nhưng lại khéo sanh vạn pháp, nên cổ đức mới tạm mượn lời mà đặt tên, gọi cái tánh huyền mầu đó là "chơn không diệu hữu", tức từ cái tánh linh diệu trong trẻo, không một vật mà pháp pháp tuỳ duyên trùng trùng sanh khởi.
09/12/2013(Xem: 8343)
Nguyện là mong cho, cầu mong cho, ước mong rằng… Khi nguyện cho người khác được hạnh phúc, chính ta liền có được hạnh phúc. Tại sao như thế? - Khi nguyện cho người khác hạnh phúc, chính trong lúc đó tâm ta thoát khỏi những tình cảm tiêu cực như đố kỵ, ích kỷ, ghét bỏ… Khi ấy chúng ta xóa bỏ được, dù chỉ là tạm thời, sự phân biệt chia cách kiên cố giữa ta và người khác. Chính sự thoát khỏi những ràng buộc tiêu cực nặng nề này đưa chúng ta đến miền đất chung của hạnh phúc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]