Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tứ Nhiếp Pháp

29/09/202009:28(Xem: 3806)
Tứ Nhiếp Pháp


duc the ton 2
TỨ
NHIẾP PHÁP

Thích Nữ Hằng Như

---------------------

                                      

  TỨ NHIẾP PHÁP LÀ GÌ ?

 Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp”   bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.

Người Phật tử tinh tấn tu hành đạt được sự an vui hạnh phúc đó là tự lợi, mang những phương pháp tu tập san sẻ cho người khác gọi là lợi tha.

Muốn giúp đỡ người khác được như mình không phải lúc nào cũng thuận duyên dễ dàng, bởi vì chúng sanh đa số thường chấp sâu vào bản ngã, lúc nào cũng tự cho mình là hay là đúng, nên không dễ gì một vài câu nói mà họ đặt niềm tin nơi mình, nghe theo mình, mà thay đổi quan niệm. Cho nên muốn thực hành hạnh Bồ-tát, Đức Phật dạy ngoài hành trang nội điển, kinh nghiệm thân chứng, tâm chứng, chúng ta cần phải có thêm những thiện xảo đặc biệt để trợ duyên, nói cách khác làm việc gì cũng có nghệ thuật khéo léo. Bốn nghệ thuật khéo léo đó là: Bố thí nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp và Đồng sự nhiếp.

          Bốn pháp này được đề cập phổ biến trong một số kinh luận cả hai hệ phái Phật Giáo Theravada (Thượng Tọa Bộ) và Mahayana (Đại Chúng Bộ) như:  Tăng Chi Bộ 1, Trung A-hàm 33, kinh Thiện Sanh; Tạp A-hàm quyển 26 (kinh 636 và 637); Tăng Nhất A-hàm 22; Thành Thật luận; Đại Tập kinh 29; Đại Phẩm Bát Nhã kinh 24; Phạm Võng kinh quyển thượng; A Tỳ Đạt Ma Tập Dị Môn Túc luận 9; Đại Trí Độ Luận 66 và 88; Đại Thừa nghĩa chương…

            Theo kinh luận Theravada , Tứ Nhiếp Pháp  giới hạn trong phạm trù nhân quả Nhân Thiên cho cả Phật tử tại gia lẫn xuất gia.

Đối với Phật tử tại gia, Kinh Tăng Chi Bộ (III) (253) phần Nhiếp Pháp, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, có bốn nhiếp này. Thế nào là bốn? – Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự”. Kinh Thiện Sanh cũng có ghi lời Phật dạy như sau: “ Này con nhà cư sĩ, có bốn nhiếp sự. Bốn việc ấy là gì? Một là Huệ thí. Hai là nói khả ái. Ba là làm lợi cho người. Bốn là có lợi cùng chia”.

Đối với hàng xuất gia, kinh Tạp A-hàm quyển 26 (636) Đức Phật dạy rằng: “Bố thí tối thắng đó là Pháp thí. Ái ngữ tối thắng, là khiến thiện nam tử thích nghe, nói pháp đúng lúc. Hành lợi tối thắng là đối với người không tín khiến có tín, xác lập nên tín; đối với người học giới thì xác lập bằng tịnh giới; đối với người bỏn xẻn thì bằng bố thí; đối với người ác trí huệ thì bằng chánh trí mà xác lập. Đồng lợi tối thắng, là nếu A-la-hán thì trao cho người quả A-la-hán. A-na-hàm thì trao cho người quả A-na-hàm. Tư-đà-hàm thì trao cho người quả Tư-đà-hàm. Tu-đà-hoàn thì trao cho người quả Tu-đà-hoàn. Người tịnh giới thì trao người bằng tịnh giới”.

Tứ Nhiếp Pháp đối với kinh luận Mahayana có ý nghĩa hơi khác một chút. Đó là bốn phương pháp thực hành của chư vị Bồ-tát nhằm nhiếp phục chúng sinh, giúp họ quay về với Phật pháp có đời sống an lạc hạnh phúc. Mặc dù chư vị Bồ-tát hành đạo vô vụ lợi nhưng chính vì sự dấn thân vào đời lo cho chúng sinh đó, lại là những việc làm vô hình chung giúp các Ngài hn thành giác hạnh viên mãn, thành tựu quả vị Phật. Cho nên giá trị của Tứ Nhiếp Pháp là đặt nặng vào việc lợi tha vô điều kiện dành cho cả hai hàng Bồ-tát xuất gia và tại gia.

            Tóm lại Tứ Nhiếp Pháp là bốn phương pháp lợi tha để giúp mọi người biết quay về với Phật pháp chân chính, hầu có được cuộc sống an vui hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây.

 

Ý NGHĨA CỦA BỐN NHIẾP PHÁP

            Ý nghĩa của bốn nhiếp pháp  như sau:

            1. Bố thí nhiếp : Dùng bố thí để thu phục. Bố thí là một trong các pháp tu Ba-La-Mật của những vị phát tâm đi trên đường  A-La-Hán đạo (thập độ ba-la-mật: Bố thí, Trì giới, Xuất gia, Trí tuệ, Tinh tấn, Nhẫn nại, Chân thật, Quyết định, Tâm Từ và Tâm Xả) hay Bồ-tát đạo (lục độ ba-la-mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nại, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ).

        Thực hành “Bố thí nhiếp” ở đây là trao tặng những sở hữu của mình bằng vật chất, công sức, lẫn tinh thần để cứu giúp người khác khi họ cần. Việc làm thiện lành vô vụ lợi này, khiến cho người được giúp đỡ, tự phát lòng cảm mến hành vi của người bố thí, khiến họ khởi lòng tin nơi Tam Bảo mà quay về với Phật pháp. Bố thí có ba loại: Tài thí, Pháp thí và Vô Úy thí.

         1-

         a: Tài thí: Tài là tiền bạc của cải vật chất, thí là biếu, tặng, cho. Tài thí có hai loại. Đó là nội tài thí và ngoại tài thí.

          - Nội tài thí: Dùng thân mạng hay một vài bộ phận trong cơ thể để bố thí khi còn sống. Đây là hành động buông xả lớn của các vị Bồ-tát. Ngày nay có phong trào hiến máu nhân đạo do các trung tâm y tế phát động, những người khỏe mạnh tình nguyện hiến tặng máu của mình với mục đích cao đẹp nhằm cứu sống các bệnh nhân thiếu máu. Có những người đồng ý ký giấy sau khi chết hiến một số chi phận trong người hay toàn bộ thân xác cho khoa học nghiên cứu … Tất cả đều thuộc về nội tài thí.

        - Ngoại tài thí: San sẻ giúp đỡ cho những người khó khăn, hoạn nạn, khuyết tật… nhằm giúp họ vơi bớt nỗi khổ đau bất hạnh bằng chính tiền bạc, tài sản, vật chất do mình tạo dựng một cách lương thiện hoặc đóng góp thời giờ và công sức của mình vào các công tác thiện nguyện.

       b. Pháp thí: Pháp là những lời dạy của Đức Phật được ghi chép lại trong tam tạng kinh điển từ thấp đến cao. Tùy theo khả năng mà chúng ta mang lời Phật dạy chia sẻ cùng quần chúng, giúp họ thấu đạt tình lý mà tu tập hầu giúp họ giảm bớt phiền não khổ đau, có được cuộc sống an vui.

          Lại nữa, nếu đem kiến thức hiểu biết của mình trong ngành giáo dục  giảng dạy người mù chữ, hay kiến thức về y học giải thích cách sống vệ sinh cho dân làng miền quê, hoặc đem những hiểu biết trong nghề nghiệp chân chính hướng dẫn cho người khác, giúp họ biết cách sinh sống không làm tổn người hại vật v.v…   Giúp người mở mang kiến thức đời và đạo như vậy, đều được xem là pháp thí.

       c: Vô Úy thí: Vô Úy là không sợ hãi. Vô Úy thí là pháp giúp người ta không còn sống trong sợ hãi. Nghĩ lại, con người từ khi sinh ra và lớn lên có nhiều nỗi sợ hãi. Người ta sợ bóng tối, sợ một mình giữa nơi hoang vắng, sợ cô đơn, sợ buồn, sợ tai nạn, sợ gặp hòan cảnh khó khăn, sợ mất việc làm, sợ mất người yêu, sợ mất chồng,  sợ mất vợ, sợ mất con, sợ già, sợ bệnh, sợ chết và nhiều thứ sợ vu vơ khác không kể hết… Để giúp con người vượt qua những sự sợ hãi này Bồ-tát giáo hóa chúng sanh bằng cách chỉ bày nhiều phương tiện như Quán, Chỉ, Định, Huệ nhằm khai mở trí tuệ cùng thực hành các pháp tu biết cách làm chủ bản thân mình. Khi hành giả biết cách làm chủ bản thân sẽ không còn sợ hãi nữa.

            2. Ái ngữ nhiếp: Dùng lời nói khả ái để thu phục. Khéo léo dùng lời nói từ tốn, hòa nhã, lịch sự, không gian dối, chủ ý giúp nâng cao trình độ hiểu biết của mọi người về Phật pháp.  Gặp người thiện thì tùy hỷ, khuyến tấn họ tiếp tục. Gặp người ác thì khuyên nhủ họ lìa xa ác hạnh, bằng những lời lẽ cảm thông, trìu mến, xây dựng, không ác ý sẽ tạo được mối thân thiện. Từ đó, người nghe khởi lòng mến phục, dần dần họ sẽ tự thay đổi lập trường và dễ chấp nhận khi nghe chúng ta đề cập đến Chánh pháp. Như vậy qua pháp Ái ngữ chúng ta có thể thu phục được người nghe, giúp họ dần đến chỗ khai ngộ Chân lý. Ái ngữ sử dụng đúng lúc, đúng thời, chính là một nghệ thuật sống phù hơp với đạo lý làm người… Thật vậy, sinh hoạt trong gia đình, nơi học đường hay ngoài xã hội, lời nói nhẹ nhàng hòa nhã chân thật và ân cần thường dễ dàng nhiếp phục mọi người hơn là cọc cằn, thô lỗ, dữ tợn.

            3. Lợi hành nhiếp: Làm những việc có lợi ích cho mọi người không phải chỉ bằng ý nghĩ hay lời nói mà còn phải dấn thân hành động khi gặp dịp. Chẳng hạn như góp tiền bạc hay công sức đắp đường, bắc cầu, xây nhà tình thương, nhà dưỡng lão, trại mồ côi, nấu cơm từ thiện cho các bệnh nhân nghèo, dấn thân dọn dẹp đường xá hay đồ đạc nhà cửa sụp đổ do bảo lụt thiên tai gây nên v.v… Những hành động nói lên tinh thần phục vụ tốt đạo, đẹp đời, nêu cao phẩm chất từ bi hỷ xả của “Lợi hành nhiếp”, khiến cho những người xung quanh sinh lòng cảm mến và thay đổi thái độ, quay về với lối sống tốt đẹp của người tu theo đạo Phật.

            4. Đồng sự nhiếp:  Cùng làm chung một công việc như nhau. Có thể là cùng nghề nghiệp, hay cùng sinh hoạt trong một đạo tràng. Làm chung một cơ sở chúng ta có cơ hội sống gần gũi với mọi người nhằm giúp đỡ họ làm tốt công việc khi họ cần. Sinh hoạt chung trong một đạo tràng, chúng ta có cơ hội gần gũi giúp bạn đạo cùng tiến tu trên con đường học Phật.  

Muốn nhiếp phục mọi người chúng ta cần phải sống hòa đồng với mọi người trong mọi hoàn cảnh vui, buồn, sướng, khổ, thành công hay thất bại. Phong cách sống của chúng ta cũng phải hòa hợp không nên có thái độ phân chia giai cấp giỏi dở. Trong Tứ Nhiếp Pháp, “Đồng sự nhiếp” là phương pháp dễ đưa tới hiệu quả nhất vì mỗi ngày chúng ta sống gần gũi với người chúng ta muốn thu phục, chúng ta có thời gian, có cơ hội áp dụng cả bốn phương pháp nhiếp phục, đồng thời nêu tấm gương tốt của người Phật tử tại gia của mình cho họ nhìn thấy.

        Nhìn chung, Tứ Nhiếp Pháp là hạnh tu đối với người xuất gia hay tại gia. Nó mang ý nghĩa cao đẹp đầy lòng nhân ái, nhằm giúp đỡ lẫn nhau để nâng cao giá trị phạm hạnh, nhân cách và trí tuệ của mọi người, chẳng hạn như muốn thu phục bạn đồng tu giống như mình về phương diện đạo đức là giữ giới đã thọ, giúp người khác về mặt pháp học cũng như pháp hành để tất cả mọi người đều có kết quả mỹ mãn như nhau trên con đường tu học..

 

GIÁ TRỊ CỦA TỨ NHIẾP PHÁP

            Tuy phân chia Tứ Nhiếp Pháp thành bốn Pháp, nhưng thực ra bốn Pháp này đều liên hệ mật thiết với nhau, vì tất cả cũng chỉ là pháp tu nhằm nâng cao việc hành trì phục vụ chúng sanh trong tinh thần từ bi và trí tuệ, với mục đích cao thượng là giúp chúng sinh mau thoát khổ giác ngộ ra khỏi vòng luân hồi sinh tử.    

           Thực hành Tứ Nhiếp Pháp có lợi cho cả hai bên. Một bên là có lợi cho chính mình trên đường tu là sẽ hoàn thành hạnh nguyện Bồ-tát phục vụ chúng sanh vô điều kiện. Còn người nhận Nhiếp Pháp cũng sẽ được lợi lạc an vui vì được nhiếp phục xa lìa tà kiến vô minh trở về với Chánh pháp.

        Pháp môn này không chỉ dành riêng cho đệ tử của Đức Phật thuộc hàng xuất gia hay cư sĩ, mà bất cứ ai cũng có thể áp dụng, tu tập, thực hành để có cuộc sống an lạc hạnh phúc trong bất cứ môi trường nào. Về phương diện cá nhân, ta tự gieo và nuôi dưỡng được hạt giống thiện lành tạo phước báo cho mình trong đời sống hiện tại và tương lai. Tất cả mọi người trong gia đình, ai ai cũng là người hiền lương, lúc nào cũng thành tâm thành ý hoàn thành trách nhiệm và bổn phận của mình thì gia đình đó chắc chắn được sống trong  hòa thuận, vui vẻ và hạnh phúc. Trong cộng đồng xã hội nếu mọi người cùng tu tập bốn phương pháp này thì xã hội sẽ được ổn định, không còn tội ác.

            Đối với người tu, Tứ Nhiếp Pháp là hành trang cần thiết cho họ trên con đường hoằng pháp lợi sanh. Triết lý Tứ Nhiếp Pháp do Đức Phật dạy từ hơn hai ngàn sáu trăm năm qua, cho đến bây giờ áp dụng vẫn không bị lỗi thời. Nó vẫn phù hợp với mọi hoàn cảnh, mọi thời đại, nhất là những việc làm chia xẻ đầy tình người của Pháp Bố Thí gồm Tài thí (nội tài thí và ngọai tài thí), Pháp thí và Vô Úy thí có giá trị nhân văn đạo đức rất lớn. Nó có công năng cảm hóa con người tránh xa nếp sống tội lỗi, khiến xã hội bớt đi những tệ nạn bất công, mọi người được sống trong bình yên hạnh phúc.

   

KẾT LUẬN

            Tóm lại Tứ Nhiếp Pháp là pháp môn thực hành của người tu tập đi vào đời nhằm nhiếp hóa, cảm phục lòng người với  mục đích cao thượng là giúp mọi người quay về sống trong Phật Pháp dẹp bỏ tham sân si. Những ai tu học Phật, nếu quán Tứ Nhiếp Pháp sâu sắc sẽ nhận ra niềm an lạc hạnh phúc khi mình thực hành Pháp này. Chẳng hạn như phát nguyện bố thí tài vật hay chính nội tài  của mình như hiến máu, tặng thận…  chẳng hạn! Hành động cứu sống mạng người, mang niềm tin vui, hạnh phúc cho chúng sanh, thì chính bản thân mình cũng được an lạc hạnh phúc. Đó là chưa kể càng làm nhiều việc phước thiện thì ruộng phước báo của mình ngày càng gia tăng, đời sống của mình mới có giá trị.  Còn như nhiếp phục được chúng sanh quay về với Chánh pháp tu hành đi đến giải thoát giác ngộ, thì công đức lớn lao không kể siết. Đức Phật dạy pháp tu này cho tất cả mọi người không phải dành riêng ai. Nếu chư vị Bồ-tát phát nguyện dâng hiến cuộc đời các Ngài cho lợi ích chúng sanh qua Tứ Nhiếp Pháp, thì chúng ta là những Phật tử tại gia cũng có thể noi gương của các Ngài mà tu tập theo bốn pháp này trong khả năng và hoàn cảnh cho phép. Đã xác nhận điều này có thể thực thi, thì tại sao chúng ta không mau cùng nhau thực hành ngay bây giờ?

                                    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                                   THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                                     (Chân Tâm thiền thất ; 28/9/2020) 

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2022(Xem: 2612)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu. Hôm nay tôi sẽ viết về các loại Tình: tình bạn, tình người, tình yêu, thình thương, tình cảm v.v… Nếu viết bằng chữ Hán về chữ Tình nầy thì bên trái viết bộ tâm đứng, có nghĩa là những tình nầy đều khởi đi từ tâm của mỗi con người; bên phải viết chữ thanh là màu xanh hay cũng còn có ý là rõ ràng, trong sáng v.v…, hai chữ nầy ghép lại gọi là chữ Tình. Sau nầy tiếng Việt chúng ta dùng chữ tình yêu, tình cảm, tình thương, tình ý v.v…cũng đều sử dụng chữ tình nầy để ghép chung vào chữ Nôm của chúng ta, trở thành tiếng Việt thuần túy.
04/03/2022(Xem: 2328)
Xin khép lại những phiền muộn của năm cũ với nhiều nỗi đau thương mất mát và ly biệt, niềm thương cảm cho người thân, thầy bạn mãi mãi rời xa chúng ta. Trong bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào, ta vẫn nghĩ, dù sao đó là những chuyện đã qua, năm mới với nhiều hy vọng mới, tư duy mới và một cuộc hành trình mới đang chờ chúng ta phía trước. Xin bạn hãy khép lại những lo âu phiền muộn, lau khô những giọt nước mắt cho những mối tình hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ, rồi cũng sẽ có người phù hợp với bạn, sẻ chia vui buồn trong cuộc sống của bạn. Sự chân thành sẽ tồn tại quanh bạn, những giọt nước mắt sẽ giúp bạn hiểu được cuộc đời này, rồi niềm vui sẽ đến, những trở ngại giúp bạn biết nâng niu cuộc sống.
02/03/2022(Xem: 5989)
CHÁNH PHÁP Số 124, tháng 3.2022 Hình bìa của Kranich17 (Pixabay.com) NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XUÂN VỀ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6
01/03/2022(Xem: 3885)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 3868)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
24/02/2022(Xem: 2532)
Nhà kiến tạo hòa bình, nhà tâm lý học, nhà cải cách xã hội học, nhà giáo dục và Phật giáo Dấn thân nổi tiếng, người Mỹ và được trên thế giới kính trọng, Tiến sĩ Phật tử Paula Green sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1937 tại Hoa Kỳ, đã thanh thản trút hơi thở từ giã trần gian vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, hưởng thọ 84 tuổi.
24/02/2022(Xem: 2520)
Tôi học mãi Phẩm 6 về “ Người Hiền Trí “trong kinh Pháp Cú và bài thứ tư trong kinh Trung Bộ “ Sợ Hãi và Khiếp Đảm “ mà vẫn không chán vì càng học càng thấy nhiều lợi ích để tu tập và sửa đổi những tật xấu và lỗi lầm của mình trên đường tu học nhất là khi mình được một đại phước duyên gần gũi một bậc hiền trí . Thú thật ….trong những năm tự nhốt mình trong tháp ngà tôi đã nghiên cứu Thiền, Tịnh, Mật, rất cẩn thận từ ghi chép, nghe nhiều pháp thoại, so sánh kinh sách nhiều tông phái …thế nhưng chưa bao giờ như lúc này tôi cảm nghiệm lời dạy Đức Phật lại thâm huyền và siêu việt hơn bao giờ hết khi phối hợp hai phẩm này trong hai bộ kinh căn bản nhất cho những ai bước trên đường Đạo . Trộm nghĩ dù với tuổi nào khi chưa hoàn tất hay gặt hái được mục đích thành tựu của Trí Tuệ ( DUY TUỆ THỊ NGHIÊP) thì chúng ta hãy cứ bước đi mà chẳng nên dừng lại .
24/02/2022(Xem: 5881)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
22/02/2022(Xem: 3440)
Trong lịch sử, các đại dịch đã buộc nhân loại phải đoạn tuyệt với quá khứ và hy vọng ở tương lai thế giới mới của họ. Điều này không có gì khác lạ. Nó là một cổng thông tin, một cửa ngõ, giữa thế giới đương đại và thế giới tương lai. Nhà văn, nhà tiểu luận, nhà hoạt động người Ấn Độ Arundhati Roy, Đại dịch là một cổng thông tin
21/02/2022(Xem: 2357)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567