Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - quan tiền xưa với nhận xét mới

26/08/202014:51(Xem: 5662)
Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - quan tiền xưa với nhận xét mới

Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - quan tiền xưa với nhận xét mới

(phần 21B)

Nguyễn Cung Thông1

Phần này bàn về cách dùng quan tiền các cách tính tiền thời trước và thời LM de Rhodes, dựa vào tự điển Việt Bồ La và một số tài liệu chữ quốc ngữ và nước ngoài. Ngoài ra, một số nhận xét của người ngoại quốc khi dùng đồng tiền An Nam cũng cho thấy thực trạng của loại tiền này. Các phê bình này hầu như thiếu vắng trong tài liệu Hán, Nôm hay chữ quốc ngữ. Đây là những chủ đề có rất ít người đề cập hay khảo sát sâu xa. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false . Không có nhiều tài liệu Hán Nôm viết về chủ đề tiền tệ trước đây nên người viết thường dựa vào một số ca dao và thành ngữ/tục ngữ đã được lưu truyền trong dân gian. Trang/cột/tờ của VBL được trích lại từ bản La Tinh để người đọc tiện tra cứu thêm. Tương quan Hán Việt ghi nhận trong bài không nhất thiết khẳng định nguồn gốc của các từ liên hệ (có gốc Việt hay Hán). Bài này đánh số 21B vì là một trong loạt bài liên hệ hay cùng chủ đề, như “Tiếng Việt thời LM de Rhodes - tiền gián, bẻ tiền bẻ đũa” là phần 21, “Tiếng Việt thời LM de Rhodes - tiền quí, cheo, tính tiền khi đi chợ …” là phần 21A. Bạn đọc nên tham khảo các bài ghi trên cho được liên tục (bài 21 - bài 21A - bài 21B ...).

1. Lỗ lầu

VBL trang 418 ghi lỗ lầu là lỗ đào ở giữa nhà để giữ bảo vật trong trường hợp hỏa hoạn ... Lỗ lầu ghi hai lần trong mục lỗ (trang 418) và mục lầu (trang 404-405), theo người viết lỗ lầu cũng là chỗ để tiền quí hay vàng bạc châu báo trong nhà ...v.v...
Tieng Viet thoi LM de Rhodes - 21B-000

VBL trang 418

Cấu trúc đặc biệt của loại tiền kim loại này, với lỗ vuông hay tròn ở giữa, đã tạo ra một số cách dùng đặc biệt như

- quan tiền = 10 tiền = 600 đồng (quan là dây xâu tiền, nghĩa cổ đại)

một vỉa tiền (VBL trang 794) – một vác tiền (Vallot, 1898 – Đàng Ngoài) hay năm quan tiền, dẫn đến bài thơ mượn tiền của nữ sĩ Hồ Xuân Hương (mượn năm mà chỉ được ba) - Đàng Ngoài. Chục là một chục quan tiền (= 10x600 đ = 6 ngàn đ) theo J. Silvestre trang 77, sđd. Chục (tiền) rất nặng (= 10 quan tiền ~ 10x2 kg = 20 kg) còn được dùng làm ‘dồ dằn’ trên tàu. Phần sau sẽ đi vào chi tiết hơn về ảnh hưởng của khối lượng mỗi quan tiền xưa.

một tiền = 60 đồng tiền kẽm – một chày (Vallot, 1898) – Đàng Ngoài

lõi tiền (VBL trang 794).

xỏ tiền vào (VBL trang 794).

gieo tiền (VBL trang 794).

làm tiền (VBL trang 794, đòi thuế bằng đồng tiền, khác với nghĩa trong tiếng Việt hiện đại)

tiền bộp (VBL trang 794, tiền chì đã mòn đi).

tiền giấy/tiền chỉ (VBL trang 794, phí trả cho nhà nước - tiền giấy nghĩa khác với cách hiểu bây giờ).

ăn tiền/ăn giấy/ăn chỉ (VBL trang 7, phí cho nhà nước/quan lại).

bẻ tiền (VBL trang 794, 795, 32, 239 …) …v.v…

Ngoài ra, lỗ lầu (tiếng Việt thời LM de Rhodes) còn là một loại "tủ sắt thiên nhiên" (~ két sắt, tủ tiền) giữ tiền quí hay bảo vật ở trong nhà khi có những tình huống nguy hiểm như thiên tai, trộm cướp. Điều này cũng giải thích tại sao vào thời này thỉnh thoảng dân chúng vẫn đào thấy những hủ tiền chôn sâu dưới đất, như theo bài báo "Bí mật hũ tiền lớn chôn sâu dưới lòng đất ở Nghệ An" (1/1/2014), xem trang này chẳng hạn https://vtc.vn/bi-mat-hu-tien-lon-chon-sau-duoi-long-dat-o-nghe-an-ar140361.h ...v.v...

2. Hình một nông dân mang (gánh) quan tiền

Như đã viết trong phần 21A, một quan tiền chỉ là một xâu tiền2 hay một tập hợp 600 đồng (tiền quí) và có thể nặng đến 2 kí lô hay hơn nữa. Theo LM Taberd (1838) thì mỗi đồng nặng khoảng 2.6767 gram và một quan nặng khoảng 1.5 kí lô (khối lượng quan tiền có thay đổi tùy theo từng tác giả và thời đại/NCT). Điều đáng chú ý là một quan tiền không nhẹ mà cầm gọn trong tay được. Một điểm đáng ghi lại ở đây là nhận xét của LM de Rhodes (khoảng đầu thập niên 1650 trong "Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài") về xâu tiền An Nam "Tất cả loại tiền đồng, lớn hay bé đều nhẵn và tròn, khắc bốn chữ trên mặt và tất cả đều có lỗ ở giữa, để dùng dây xỏ vào như thường lệ. Vì thế mỗi dây buộc chừng sáu trăm3 hoặc mười lần sáu mươi có đánh dấu để phân biệt mỗi sáu chục đồng. Như vậy rất thuận tiện để quàng vào cánh tay hay khoác lên vai khi đi chợ, không cần dùng túi như chúng ta, chỉ dùng dây mà thôi". Có thể nhu cầu của LM de Rhodes không giống với thời đại của tác giả Charles Lemire vào năm 1868, khi ông đưa ra nhận xét rất khác biệt "Đồng tiền An Nam là một đĩa bằng kẽm với lỗ vuông ở giữa, một mặt ghi triều đại mà đồng tiền được đúc. 600 đồng xâu lại thành một quan tiền hay một chuỗi tương đương với một phật lăng (franc). Mỗi quan lại được chia thành 10 tiền hay 10 đoạn có 60 đồng cho từng đoạn - tập hợp 10 tiền như vậy giống như tiền của nhà lập pháp Hi Lạp Lycurgus4 - vì tiền này nặng và khó đem đi theo mình" (tạm dịch/NCT). Hình chụp ở dưới vào năm 1927, năm mà Quốc Văn Giáo Khoa Thư (lớp sơ đẳng) xuất bản bài ca dao "đi chợ tính tiền", hình trích từ trang này5 http://bunum.univ-cotedazur.fr/omeka-s-dev/s/mai_68/item/6208#?c=&m=&s=&cv=&xywh=-1590%2C0%2C5444%2C3163

Tieng Viet thoi LM de Rhodes - 21B-001

Lấn cấn về đồng tiền cổ VN đã có từ trước đây, như vào thời vua Lê Thánh Tông (1442-1497) đã phải ra luật 'bảo vệ' tiền không được hoàn hảo cho lắm - trích từ Đại Việt Sử Kí Toàn Thư trang này chẳng hạn http://www.nomfoundation.org/nom-project/history-of-greater-vietnam/Search-History-of-Greater-Vietnam?uiLang=vn

Tieng Viet thoi LM de Rhodes - 21B-002

Cho đến đầu TK 19, rắc rối về phẩm chất đồng tiền cổ VN còn được trung úy hải quân Mỹ John White ghi nhận trong cuốn A Voyage to China Sea như sau "Dây xâu tiền (một quan tiền có 10 tiền/NCT) thắt nút ở giữa, thành ra mỗi 5 tiền hay 300 đồng xâu lại ở hai bên và hai đầu cột lại. Các loại tiền này còn được lưu trữ ở viện bảo tàng Công Ty Hàng Hải Đông Ấn. Quan và tiền là đơn vị tiền ảo (không có thật/NCT). Người có tiền này thường bị mất mát lớn, vì thành phần kim loại đúc tiền này rất dòn và vì thế tiền này thường dễ sứt mẻ; ngoài ra vì không có nhà băng hay không có cơ sở chính thức giữ tiền trong nước nên người có tiền phải chôn tiền dưới đất và càng làm chúng dễ hao mòn đi ..." tạm dịch từ nguyên bản tiếng Anh/NCT - xem hình chụp bên dưới
Tieng Viet thoi LM de Rhodes - 21B-003

trích từ trang 257 (sđd)

Vài danh từ đặc biệt trong đoạn trích ở trên là macesepecks chỉ tiền và đồng tiền, để ý rằng tác giả John White vẫn dùng dạng tiếng Việt quan. Mace tiếng Anh có gốc là tiếng Mã Lai, nhập vào tiếng Bồ Đào Nha thành maes (hay mas) và trở thành thông dụng trong thị trường Á Châu vào những thế kỉ trước, khi Bồ Đào Nha còn nắm thế thượng phong trong hàng hải và thương mại quốc tế. Mace chỉ một đơn vị khối lượng (khoảng 3,78 gram) hay đơn vị tiền tệ, trong trường hợp này chỉ tiền An Nam (hay 60 đồng An Nam). Vào thời tác giả John White thì 2 quan tiền An Nam tương đương với một đồng bạc Tây Ban Nha (Spanish dollar, trang 241 sđd) hay một peso, hối suất này cũng được tác giả John Crawfurd ghi nhận trong nhật ký (trang 241, sđd). Sepeck tiếng Anh (sapèque tiếng Pháp) chỉ đồng tiền hay đơn vị tiền nhỏ nhất của An Nam. Sepeck có gốc là tiếng Mã Lai: sepeck < sapacu, sa là một, pacu là đồng tiền có lỗ ở giữa. Tác giả John White ghi rõ là dạng sepeck là từ Bồ Đào Nha nhưng dân bản xứ gọi là dong (đồng, trang 241 sđd).

Học giả Pháp Jules Silvestre (1841-1918), chuyên khảo về tiền tệ VN, đã ghi lại trải nghiệm khi sử dụng xâu tiền ở địa phương:"Một khuyết điểm quan trọng là không có loại tiền nào dùng khác hơn là đồng tiền bằng kẽm (sapèque): cần cả một xe vận tải đại bác để chở các xâu tiền này sau khi đổi 1 ngàn Phật Lăng (francs) vì chúng nặng bằng một tấn (tonneau) rưỡi6! Khi đi chợ, có khi một con gà còn nhẹ hơn số đồng tiền bỏ ra mua nó" tạm dịch từ nguyên bản tiếng Pháp/NCT.
Tieng Viet thoi LM de Rhodes - 21B-004

J. Silvestre, trang 109 sđd

Nhà báo Mỹ William Sachtleben đã có lần ở thành phố Ghulja (hay Y Trữ 伊宁) năm 1892 và muốn đi xe đạp với người bạn Nga đến Bắc Kinh: ông ghi nhận bao nhiêu khó khăn khi muốn chuyên chở loại tiền xâu của Trung Hoa khi du hành. Hình chụp bên dưới cho thấy một đống xâu tiền ông và người bạn dùng để trả chỉ cho một bữa ăn ở nhà hàng địa phương!
Tieng Viet thoi LM de Rhodes - 21B-005

Hình trích từ trang https://www.wikiwand.com/en/String_of_cash_coins_(currency_unit)

Một điểm nên ghi lại ở đây là trong nhật ký của mình (trang 373, vào trưa ngày 26/9/1822, sđd), John Crawfurd nhắc lại chuyện một viên quan VN trao cho ông 30 quan tiền với mục đích là người nhà (giúp việc) ông đi chợ địa phương mà không gặp rắc rối lúc trả tiền. John Crawfurd đã nhận số tiền này vì sợ làm phật lòng quan chức ở đây, điều mà ông cố tránh. Tuy nhiên, ở phần phụ chú cùng trang ông ghi thêm là (ba mươi quan tiền VN) "bằng khoảng 15 đồng Tây Ban Nha (Spanish dollars), và làm bằng những đồng tiền tồi tàn (miserable) đúc bằng kẽm" tạm dịch/NCT. Như vậy là các nhận xét7 trên đều cho thấy có vấn đề về phẩm chất cũng như khối lượng của đồng tiền VN từng sử dụng trước đây.

3. Xã hội không dùng tiền mặt (cashless society)

Người viết còn đặc biệt chú ý đến nhận xét của John White rằng quan và tiền là ảo8 (“The quan and mace are imaginary” từ tài liệu tiếng Anh chụp lại bên trên). Đây có lẽ báo hiệu cho một hiện tượng có thể sẽ xẩy ra trong tương lai gần về việc thanh toán không dùng tiền mặt (ttkdtm) - nhất là trong thời buổi coronavirus đang tung hoành khắp nơi! Một cách ttkdtm là dùng thẻ tín dụng (credit card), cân nặng khoảng 5 gram hay kém hơn khối lượng của hai đồng tiền, tuy nhiên không cồng kềnh nhưng mãi lực rất cao và độ bền cao so với tiền kim loại và tiền giấy thời trước. Đối với xã hội hiện đại, ttkcdtm mang lại nhiều ưu điểm cho nền kinh tế khi tiết kiệm nhân lực, các dạng chi phí mà còn góp phần bảo vệ môi trường chung quanh như ít rác hơn, ít giấy dùng hơn ...v.v... Trong thời buổi lây lan của coronavirus, dùng thẻ tín dụng lại càng có nhiều ưu điểm vì không cần phải qua tay nhiều người như tiền mặt. Hình minh họa sau cho thấy thẻ tín dụng hay thẻ ghi nợ (debit card) có thể dùng để trả khi đi chợ, đi máy bay, đi du lịch/nghỉ hè, trả lương, đổ xăng, đi ăn nhà hàng ...

Tieng Viet thoi LM de Rhodes - 21B-006

Hình trích từ trang https://www.quillgroup.com.au/blog/cashless-society/

Khối lượng của một quan tiền (khoảng 1,500 gram) so với một thẻ tín dụng (khoảng 5 gram) là 300 so với 1 (hay 300:1), tuy nhiên giá trị của một quan tiền so với một thẻ tín dụng hiện nay có thể ngược lại tỷ số trên, hay là bằng 1 so với 300 (hay 1:300). Thí dụ như một thẻ tín dụng có thể trả chi phí tối đa (mức tín dụng/credit limit) là 30,000 AUD (đô la Úc); trung bình một ngày làm được 100 AUD (tương đương với 1 quan tiền là lương làm một ngày thời trước), do đó tỷ số giá trị là 30,000:100 hay 300:1. Trong thực tế thì thẻ tín dụng có nhiều ưu điểm hơn thế nữa như di chuyển gọn gàng (không cần khoảng rộng như một xấp tiền mặt), vay tiền ngắn hạn, chủ động chi tiêu qua những tóm tắt chi tiêu (từ ngân hàng), thanh toán chi phí nhanh chóng và mức vệ sinh cao ...v.v... Khuynh hướng dùng tiền mặt cũng càng ngày càng ít đi ở bên Úc9, theo thống kê của Ngân Hàng Dự Trữ Úc (Reserve Bank of Australia):

Tieng Viet thoi LM de Rhodes - 21B-007

Tóm lại, chỉ trong vòng 100 năm - khi so sánh hình chụp một người nông dân mang10 quan tiền trên vai với một người cầm thẻ tín dụng trả các chi phí hiện nay - xã hội VN đã thay đổi rất nhiều, nhất là khi so với thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo cách đây khoảng 400 năm. Kỹ thuật đúc tiền, dùng và giữ tiền đã tạo ra hàng loạt kỹ nghệ phụ thuộc như trong ngôn ngữ qua các cách dùng xâu tiền, lõi tiền, vỉa tiền, tiền quí, tiền gián (và tiền giả), lỗ lầu ... Qua các tài liệu nước ngoài khi giao dịch với VN trước đây, ảnh hưởng của Bồ Đào Nha cũng khá dễ nhận ra11 qua cách dùng tiền mace (masse/Pháp) và sepeck (sapèque/Pháp) cho đến TK 19 trước thời Pháp thuộc. Các làn sóng dịch coronavirus năm nay (2020) cho ta thấy xã hội cần một mức vệ sinh rất cao để phòng chống lây lan, hay nên dùng tối thiểu tiền mặt khi đã qua tay nhiều người cũng như những dịch vụ không cần tiếp xúc trực tiếp (contactless). Khái niệm về tiền tệ không những khác biệt giữa văn hóa Tây và Đông phương, nhưng cũng thay đổi rất nhiều so với TK 17 khi các giáo sĩ Âu Châu sang ĐNA truyền đạo. Hi vọng loạt bài này sẽ gợi ý cho bạn đọc tìm hiểu sâu xa hơn về hệ thống tiền tệ12 nước ta từ xưa đến nay với những kết quả thú vị.

4. Tài liệu tham khảo chính

1) Cristophoro Borri (1631) "Relatione della nuova missione delli P.P. della Compagnia di Gesù al Regno della Cocincina” (Nhiệm vụ mới của các cha dòng Tên ở Vương quốc Đàng Trong - NCT) bản dịch của tác giả Phạm Văn Bân 4/2011 - có thể xem toàn bài trang này https://thunhan.org/images/file/OGaaTdIb0wgQAKwp/mar-31-11-cristoforo-borri-vietnamese-avril-5-1-.pdf .

2) John Crawfurd (1830 ) "Journal of an Embassy from the Governor-general of India to the Courts of Siam and Cochin China" NXB H. Colburn and R. Bentley (London, Anh quốc).

3) "Đại Việt Sử Kí Toàn Thư " Bản in Nội các quan bản - MỘC BẢN KHẮC NĂM CHÍNH HOÀ THỨ 18 (1697) trích từ trang này http://www.nomfoundation.org/nom-project/history-of-greater-vietnam/Preface?uiLang=vn.

4) Lê Quý Đôn (cuối TK 18?) "Phủ Biên Tạp Lục" Đào Duy Anh hiệu đính (2007) - NXB Văn Hóa Thông Tin - sách có tái bản nhiều lần với các tác giả hiệu đính khác nhau.

5) Phạm Quốc Quân (chủ biên)/Nguyễn Đình Chiến/Nguyễn Quốc Bình/Hùng Bảo Khang (2005) "Tiền Kim Loại Việt Nam" NXB Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam (Hà Nội). Một tài liệu tham khảo với nhiều thông tin về khối lượng của các loại đồng tiền xưa.

6) Alexandre de Rhodes (1651) "Phép Giảng Tám Ngày" - Tủ Sách Đại Kết in lại từ Tinh Việt Văn Đoàn (1961 - Sài Gòn) với phần giới thiệu của tác giả Nguyễn Khắc Xuyên.

(1651) “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố HCM (1991).

“Tường Trình về Đàng Trong 1645” bản dịch của Hồng Nhuệ, NXB Ánh Sáng Publishing, Escondido (California/Mỹ, 1994?).

"Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm 1646" dịch giả Nguyễn Khắc Xuyên - Tủ sách Đại Kết, Thành phố HCM (1994).

7) Jules Silvestre (1883) "Notes pour servir à la recherche et au classement des monnaies et médailles de l'Annam et de la Cochinchine française" Imprimerie Nationale (SaiGon).

8) Jean Louis Taberd (1838) - tên Việt là cố Từ - "Dictionarium Anamitico-Latinum" Serampore (Bengale).

9) Nguyễn Cung Thông (2020) "Tiếng Việt thời LM de Rhodes - tiền gián, bẻ tiền bẻ đũa” (phần 21) có thể tham khảo bài viết này trên trang này chẳng hạn http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tieng-viet-thoi-lm-de-rhodes-tien-gin-be-tien-be-dua/ …v.v…

(2020) “Tiếng Việt thời LM de Rhodes – tiền quí, cheo, tính tiền khi đi chợ …” (phần 21A) có thể tham khảo bài viết này trên trang này chẳng hạn https://nghiencuulichsu.com/2020/08/11/tieng-viet-thoi-lm-de-rhodes-tien-qui-cheo-tinh-tien-khi-di-cho-phan-21a/ …v.v…

10) Lục Đức Thuận/Võ Quốc Ky (2009) "Tiền cổ Việt Nam" Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (Hà Nội, Việt Nam) - có tái bản (2017) ...

11) Francis Turner (cập nhật 2019) "Money and exchange rates in 1632" tham khảo trên mạng https://1632.org/1632-tech/faqs/money-exchange-rates-1632/

12) John White (1823) "A Voyage to China Sea" NXB Wells and Lilly (Boston, Mỹ).

1 Nghiên cứu ngôn ngữ độc lập ở Melbourne (Úc) – email nguyencungthong@yahoo.com

2 Không phải lúc nào quan cũng nhất thiết là một xâu tiền như đã viết ở trên (nghĩa cổ của quan bộ bối , cũng là mân bộ mịch thấy rõ nghĩa dây xâu hơn). Như vào thời nhà Hồ khi dùng tiền giấy (ban hành vào năm 1396 thời Trần Thuận Tông) thì một quan tiền giấy là một tờ giấy có vẽ hình con rồng (rồng tương trưng cho thiên tử cao nhất trong tứ linh long lân quy phượng, tương đương với 1 quan/NCT).

3 Tuy nhiên LM Cristophoro Borri (1631) lại ghi là mỗi quan tiền bằng một ngàn đồng, có lẽ bị ảnh hưởng bởi cộng đồng người Hoa và Nhật ở Hội An. Trong bản tường trình, LM Borri cũng nhắc đến đồng ducat, một loại tiền dùng ở Ý (Venice) bằng khoảng 1 đến 2 quan An Nam/NCT: "Tôi còn nhớ một người Bồ Đào Nha đem từ Macao đến Đàng Trong một hộp kim may, nó chỉ độ không hơn 30 ducat mà bán được hơn một nghìn". Tiền ducat được đúc bởi Tòa Thánh La Mã từ năm 1432, cho nên khá thịnh hành trong các nước có ảnh hưởng CG vào thời Trung Cổ. Bản tường trình cũng nhắc đến đồng écu (Pháp) tương đương với 3 đồng livre (Pháp) hay khoảng 3 quan tiền An Nam (tính qua hối suất tiền Guilder năm 1632/NCT). Trong Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài (sđd) từ 1627 tới năm 1646, LM de Rhodes cũng nhắc đến đồng écu:"Ở nước này người ta không đúc tiền như ở Trung Quốc, trừ tiền bằng đồng. Người Đàng Ngoài dùng vàng và bạc để buôn bán những hàng hóa quan trọng, nhưng họ không dùng vàng bạc giáp khuôn hay cối đúc, chỉ chặt thành miếng hay thành thỏi sau khi nấu trong lò. Về bạc họ dùng trong việc thương mại, thường là bạc nén, tương đương với mười écu, còn về vàng thì nhẹ hơn nhiều, về giá thì tùy theo trọng lượng, tùy theo giá cao hay thấp".

4 Đây là kiểu nói ẩn dụ so sánh tiền An Nam cồng kềnh và không có lợi nhiều như tiền sắt của nhà lập pháp/nhà sáng lập cổ đại Lycurgus (khoảng 820 TCN, Hi Lạp). Ông từng cấm dùng tiền vàng và bạc mà chỉ dùng tiền sắt ‘đặc biệt’ hầu xóa bớt khoảng cách trong xã hội (hay để tăng mức bình đẳng xã hội).

5 Trang mạng này có nhiều hình cổ và hiếm như hình vua Khải Định, hình vua đang làm việc, hình vua ký tên (viết chữ Nho), hoàng tử Vĩnh Thụy, Hoàng Hậu, quan chức, danh thắng, hoạt động xã hội như chợ ở quê...v.v...

6 John White/1823 ghi lại hình ảnh một chiếc thuyền chở đầy đồng tiền địa phương vì khi đổi 750 đồng Tây Ban Nha ra tiền An Nam vì các xâu tiền đổi nặng đến 2 tấn rưỡi (trang 290, sđd). Điều này khá chính xác vì 750 đồng Tây Ban Nha tương đương với khoảng 1,500 quan tiền, hay nặng khoảng 1,500x1,5 kg = 2,250 kg hay 2 tấn và 250 kg (dựa vào ước lượng của LM Taberd/1838).

7 Có lẽ đầu tiên là tác giả Charles Lemire (1868, sđd) đã dùng một thành ngữ La Tinh để bày tỏ ý mình về loại tiền này "non numerantur, sed ponderantur" (không đếm được mà phải cân/NCT). Xem thêm chi tiết trang này https://www.wikiwand.com/en/String_of_cash_coins_(currency_unit). Nhận xét này khá chính xác cho tiền đồng nhà Nguyễn vì ngoài loại tiền có ghi khối lượng rõ ràng như lục văn, thập văn, thất phân thì còn một loại không ghi gì cả mà ta phải cân để định giá. Cách định giá tiền tệ như vậy rất khác biệt với hệ thống tiền tệ theo truyền thống Tây phương (tiền đếm so với tiền "cân").

8 Nên phân biệt với đồng tiền ảo (virtual currency) như bitcoin (BTC), tiền điện tử, tiền mã hóa hay tiền kỹ thuật số hiện nay. Một điểm chung là thanh toán chi phí mà không dùng tiền mặt, ngay cả đến ngày hôm nay, người viết (NCT) vẫn chưa hoàn toàn quen thuộc với khái niệm ttkdtm so với thế hệ trẻ hơn.

9 Ở VN cũng có những hoạt động khuyến khích việc thanh toán không dùng tiền mặt, đây là một xu hướng toàn cầu khá rõ nét, td. như bệnh viện Nhân dân Gia Định TPHCM đã bắt đầu áp dụng cách trả tiền từ ngày 23/7/2020 - xem chi tiết trang này http://congan.com.vn/doi-song/suc-khoe/trien-khai-giai-phap-thanh-toan-vien-phi-khong-dung-tien-mat_96343.html ...v.v...

10 Đúng hơn là vác hay gánh quan tiền vì sức nặng của xâu tiền 600 đồng, so với thẻ tín dụng chỉ cần hai ngón tay để sử dụng - so sánh hai bức hình minh họa trong bài.

11 Xem thêm các bài viết như "Tiếng Việt thời LM de Rhodes – “Phổ Kiến (Phúc Kiến), Chincheo và Varella ... (phần 23)", "Tiếng Việt thời LM de Rhodes – cách gọi ngày tháng/thời gian (phần 6)" để cho thấy ảnh hưởng của ngôn ngữ/văn hóa Bồ Đào Nha trong tiếng Việt mà ít người nhận ra.

12 Như từ các góc nhìn ngôn ngữ, văn hóa, thành phần kim loại và khối lượng, độ bền, ảnh hưởng Tây phương ...


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/09/2012(Xem: 10999)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
18/09/2012(Xem: 10399)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
14/09/2012(Xem: 19735)
Thế giới đang sử dụng Thiền như thức ăn như nguồn sống không thể thiếu trong cuộc đời thường. Ngay ở nước Mỹ, quốc gia tân tiến bậc nhất về khoa học kỹ thuật cũng đã áp dụng Thiền như một phương thuốc trị liệu tâm lý.
14/09/2012(Xem: 6732)
Tất cả những pháp môn tu chỉ nhằm chuyển hóa tâm thức, vì chỉ có chuyển hóa tâm thức. Nhìn trên căn bản, mỗi người tu Phật cần thực hành hai phương diện. Thứ nhất, hành giả phải có khả năng rút khỏi xã hội một thời gian nhất định nào đó, có thể vài giờ, vài ngày, vài tháng hoặc vài năm... Thứ hai, có khả năng đem những kinh nghiệm từng trãi nơi tịnh tu vắng vẻ cống hiến lại cho cuộc đời, cho những người hữu duyên và cho chính cuộc sống hằng ngày mỗi chúng ta. Như hơi thở ra và hơi thở vào, cả hai đều cần thiết như nhau. mới phổ độ chúng sanh một cách chân thật.
14/09/2012(Xem: 6789)
Mấy năm trước, nhân dịp Đức Dalai Lama đến thăm thung lũng Lahoul nơi chúng tôi tu tập ở Ấn Độ; lúc đó Ngài trú lại một tuần để thăm viếng, ban lễ điểm đạo và giảng pháp. Sau buổi thuyết pháp dài mấy tiếng đồng hồ, tôi hỏi một phụ nữ Lahoul rằng: “Bác có biết Đức Dalai Lama giảng gì không?”. Bác gái trả lời: “Dạ, con không hiểu nhiều nhưng con biết Ngài giảng là, nếu ta có lòng từ bi thì đó là điều tốt”. Đúng vậy, cơ bản là như thế. Đâu có gì đáng nói hơn thế nữa phải không? Nếu chúng ta có lòng từ bi, điều đó không tốt lắm sao? Vậy từ bi nghĩa là gì?
12/09/2012(Xem: 4794)
Đã có một trong những sự phát triển sâu xa , xuất hiện từ thế kỷ 20 , tác động đến đời sống của hàng tỷ người , nhưng vẫn chưa được chú ý rộng rãi . Bên cạnh những biến đổi đầy ấn tượng về chính trị và xã hội , những phát triển về khoa học và công nghệ , cùng những hệ thống mới trong lãnh vực vận tải và truyền thông , các sử gia tương lai chắc chắn sẽ quan tâm đến sự tự do tương đối . Họ sẽ nhận thức rằng chính sự tự do tương đối đã trước hết diễn dịch rồi sau đó định hình cho cá tính của từng con người ; cuối cùng mang lại quyền tồn tại cho loài người . Tuy những yếu tố quen thuộc tạo nên tự ngã , như là tính cách sắc tộc , khu vực định cư , dòng dõi , gia đình …vẫn hiện diện , nhưng những yếu tố đó không còn quan trọng vì một chuỗi những yếu tố độc đặc mới xuất hiện trong thế kỷ 20 . Cho nên khi đã hoàn toàn chấp nhận các ý niệm dân chủ tự do như một bản chất thực nghiệm làm nền để xác định ý nghĩa của việc làm người , hiếm khi chúng ta xem xét những ý niệm đó đã làm biến đổi hình th
12/09/2012(Xem: 5736)
Phật giáo Đại thừa có rất nhiều Thần chú như Chú Đại Bi, chú Thủ Lăng Nghiêm, chú Chuẩn đề… mà Thần chú chỉ có trong Mật tông. Vậy lịch sử hình thành Mật tông như thế nào?
11/09/2012(Xem: 5157)
Người Phật tử khi đã hiểu đạo thì phải lấy hạnh khiêm tốn làm đầu, phải biết khiêm tốn thấp mình thưa hỏi đạo lý thì mới học được điều hay lẽ phải mà biết được cội nguồn của giác ngộ, giải thoát. Người Phật tử phải nên nhớ rằng muốn mình thật sự khiêm tốn thì ngay bước đầu chúng ta phải tập nhẫn nhịn đối với những việc trái ý nghịch lòng, nhẫn không có nghĩa là hèn nhát.
01/09/2012(Xem: 9448)
Phật tính [1] có thể là bản chất trống rỗng của tâm thức, mà trong trường hợp nào nó không là một thức. Nó cũng liên hệ đến tâm tịnh quang nguyên sơ là điều liên hệ hơn đến giáo huấn mật thừa tantra.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567