Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn câu Kệ xuất thần

25/08/202018:35(Xem: 6496)
Bốn câu Kệ xuất thần

Bốn câu Kệ xuất thần

Bon-Cau-Ke-Xuat-Than-000

Lịch sử thật là muôn hình vạn trạng, các Sử gia lại càng biến hóa khôn lường. Họ cứ như một tiểu thuyết gia tài tình, uốn nắn nhân vật trong truyện với ngòi bút tinh xảo đầy quyền uy của mình thành một nhân vật như ý muốn: "Muốn sống được sống, muốn chết được chết và đặc biệt đang từ một Nữ Hoàng Đế mộ Đạo Phật trở thành một người phụ nữ dâm đãng, tàn ác giết người không thương tiếc".

Nhân vật tôi muốn viết dưới đây là vị Nữ Hoàng Đế của triều đại Đường bên Trung Quốc: Võ Tắc Thiên, người đàn bà lừng danh kim cổ có một không hai trong lịch sử loài người. 



Câu chuyện bắt đầu vào những buổi sáng, sau khi thức dậy, vệ sinh cá nhân xong đến màn "lắc cổ vẫy tay" để đưa đến việc khai kinh kệ cho mục lạy Hồng Danh Sám Hối. Khi bốn câu Kệ xuất thần được xướng lên:



Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp.
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì.
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.

Nghĩa là:
Pháp vi diệu rất sâu vô lượng.
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.
Nay con nghe được xin trì tụng.
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Bon Cau Ke Xuat-than-1

4 câu Kệ bằng Hán Văn.



Tôi quán tưởng ngay đến nhân vật Võ Tắc Thiên, người đã tán dương công đức Kinh Hoa Nghiêm, khi đọc được bản dịch của Bộ Đại Thừa Hoa Nghiêm Kinh do mình xuống lệnh cho các Pháp Sư lừng danh dịch thuật từ tiếng Phạn ra Hán văn. Không biết khả năng hiểu Kinh của Bà đến đâu, nhưng bốn câu thủ bút của Bà hạ xuống đã theo các Phật tử của hàng Đại thừa thuộc môn phái Bắc Tông đến nay đã hơn 12 thế kỷ mà vẫn chưa có câu khai kinh Kệ nào thay thế được. 



Cứ mỗi lần xướng lên bốn câu Kệ của Bà, tôi lại chấn động cả toàn thân, nhiều khi xúc động muốn rơi cả nước mắt. Có lẽ sau 12 thế kỷ vẫn có người "cảm" được ngôn từ của Bà.



Nhưng hình ảnh của Võ Tắc Thiên trong trí óc tôi hoàn toàn bị các sách báo, phim ảnh, phim bộ làm mê mờ. Nhắc đến vị Nữ Hoàng Đế này tôi đều phê cho một chữ "Nhất", đẹp nhất, thông minh nhất, quyền uy nhất, giỏi nhất, dâm đãng nhất và tàn ác nhất. Nếu tôi tỏ ý ngưỡng mộ Bà, muốn được như Bà, thiên hạ sẽ nhìn tôi với ánh mắt chế diễu cho hai cá tính được nêu ra sau cùng!??



Nhưng trí tuệ của tôi mách bảo, đừng cả tin những gì thiên hạ gán cho Bà, phải đi tìm sự thật rồi suy luận kỹ càng mới có cái nhìn đúng đắn về con người kỳ diệu ấy! 

. Nếu nói Bà hoang dâm quá độ e có hơi hoang tưởng, vì thời gian làm Quý Phi và Hoàng Hậu, ai dám cả gan làm chuyện tày trời. Đến khi Bà lên ngôi Hoàng Đế năm 690, với quyền uy tối thượng của "Con Trời", tha hồ thực hiện các "giấc mộng ái tình", nhưng rất tiếc tuổi xuân đã đi qua. Năm đăng quang Bà đã tròn 65 tuổi, cho dù y dược của xứ "thâm cung bí sử" Trung Hoa có thần dược đến đâu cũng không thể níu kéo tuổi xuân của một lão Bà Bà đã gần 80 tuổi. Ấy thế mà cả một tuổi thơ của tôi đã tin xoáy trán! Cũng bởi vì thích xem phim cổ trang lịch sử mà thôi! 



Trong suốt 15 năm trị vì trên ngôi Thiên Tử, sử sách chẳng chịu ghi chép nhiều đến các công lao to lớn của Bà đối với triều đại được mệnh danh là Đại Đường, mà cứ bôi nhọ Bà bằng những mối tình man rợ với nam nhân. 



.  Chuyện Bà giết người thẳng tay, hễ ai âm mưu tạo phản đòi lật đổ Bà, chỉ có nước bay đầu và bị tru di tam tộc. Nghe thật dã man, nhưng đây là luật lệ ngàn xưa của vua chúa thời phong kiến. Họ không muốn con cháu kẻ tử tội sau này sẽ trả thù nên "Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc" không chừa một người nào. Bà Hoàng Đế này chỉ làm như các Tiên Đế xưa đã làm để bảo vệ ngôi báu.



Hai cái "Nhất" sau cùng của Bà đã được tôi tẩy rửa phần nào. Dĩ nhiên "Không có lửa làm sao có khói", Bà cũng dính líu chút ít chứ không nặng nề vùi dập ngàn cân như các Sử gia đã viết về Bà.

Tại sao lại xảy ra cớ sự như thế? 



Vì Đạo Nho mang tư tưởng trọng nam khinh nữ, các đấng nam nhi "đầu đội trời, chân đạp đất", đâu thể nào chịu nổi cảnh phải cúi đầu tung hô vạn tuế một nữ nhi mà họ cho là kẻ "Với không qua đầu ngọn cỏ". Thật đáng ghét! 

Lại thêm cái Đạo Tiên, các tiên ông thấy Bà sùng Đạo Phật coi nhẹ Đạo Tiên, xem Bà như cái gai trước mắt. Họ công ty với nhau viết lịch sử về cuộc đời Bà, bôi nhọ hình ảnh một Nữ Hoàng Đế mộ Đạo Phật. 



Từ năm 14 tuổi nàng tiểu thư xinh đẹp họ Võ đã được tuyển vào cung làm vợ vua Lý Thế Dân tức Đường Thái Tông với tên gọi Võ Mỵ Nương. Nhưng đất bằng dậy sóng khi quan Lý Thuần Phong, người chịu trách nhiệm về âm dương thiên văn của thời đại nhà Đường, cứ nằng nặc đòi vua phải giết tất cả họ Võ trong cung để tìm cho ra "Nữ chủ Võ Thị" sẽ soán ngôi nhà Đường trong tương lai. Mặc dù yêu quý nàng Phi tài sắc và dũng cảm này nhưng vua Lý Thế Dân vẫn tìm cách tránh xa nàng. Nhưng định mệnh đã an bài cho cuộc gặp gỡ trong cung cấm của Thái tử Lý Trị với nàng để trở thành mối lương duyên "tình cha duyên con" thâu tóm giang sơn nhà Đường vào tay họ Võ. 

Khi Đường Thái Tông băng hà, các Phi tần không con đều được đưa vào Chùa bắt đi tu cho hết kiếp, họ không được lấy chồng khác, nhất là nàng Võ Mỵ Nương. Nhưng lỡ mang trong tay Thiên mệnh, nàng vẫn được vua Đường Cao Tông tức Lý Trị yêu quý năm xưa vào tận chùa Cảm Nghiệp lôi ra đưa về cung phong làm Hoàng Hậu sau khi nàng hạ sanh Hoàng tử.



Tài trị nước của Võ Hoàng Hậu có phần lấn lướt chồng, nên vua cũng hoan hỷ nhường Hậu tất cả mọi việc triều chính. Từ từ Bà thâu tóm hết quyền uy, cùng Chồng trị vì thiên hạ trong thời gian khá dài 23 năm, cho đến khi Đường Cao Tông băng hà. Bà cũng lập con trai Lý Hiển lên ngôi tức Đường Trung Tôn, nhưng chỉ được hai tháng thì chê bất tài và tạo phản để đày đi Phòng Châu biệt xứ năm 684. 

Cậu út Lý Đán lên ngôi tức Đường Duệ Tông, làm vua bù nhìn được 6 năm nhờ ngoan ngoãn nghe lời Thái Hậu. 

Đến năm 690, khi Sư Pháp Minh dâng 4 cuốn Đại Vân Kinh ca tụng Bà là "Di Lặc xuống trần" và các quan đại thần theo phe cánh của Bà dâng tấu mời Bà lên ngôi cửu trùng. Rồi thuận theo ý trời, ý người và cả ý của Hoàng Đế đương triều Đường Duệ Tông, Bà mới lên ngôi Hoàng Đế với tên gọi Võ Tắc Thiên, lập ra đời Võ Chu vào năm 690 lúc Bà vừa tròn 65 tuổi. 

Đến năm Bà 80 tuổi thì vô thường ập đến, ngã bệnh, già yếu không thể lâm triều lo việc nước. Nhờ nghe lời can gián của Tể tướng Địch Nhân Kiệt, một nhân tài đã đưa ra nhiều sách lược, Bà thoái vị nhường ngôi cho con trai lớn Lý Hiển tức Đường Trung Tông. Sau 15 năm cai trị nhà Võ Chu đã trả lại giang sơn cho nhà Đường vào năm 705.



Công lao trị vì thiên hạ của Bà được Sử gia Lâm Ngữ Đường tóm tắt các điểm như sau:

.  Mở mang lãnh thổ Trung Quốc, vươn sang Trung Á, chinh phục bán đảo Triều Tiên. 

.  Phát triển kinh tế, xã hội, duy trì sự ổn định trong nước, biết xử dụng nhân tài. 

.  Khuyến khích phát triển Phật giáo.

 

Điểm sau cùng này chứng tỏ Bà là người rất sùng Đạo Phật. Từ 14 tuổi lúc chưa vào cung, Bà đã cùng mẹ đi Chùa và bảo trợ cho việc khắc tượng Phật trong núi đá. Lúc có quyền uy trong tay Bà đã ủng hộ việc dịch Tam Tạng Kinh Điển. Vào năm 695, cho đón Pháp Sư Nghĩa Tịnh từ Ấn Độ về, đã dịch được 4 trăm quyển kinh, trong đó có Bộ Đại Thừa Hoa Nghiêm Kinh làm chất xúc tác cho 4 câu Kệ xuất thần của Bà. Ngoài ra còn có Pháp Sư Nan Đà, Pháp Minh và nhiều vị khác... trong hội đồng dịch thuật Kinh Tạng thời của Bà.

 

Nhắc đến việc dịch thuật Tam Tạng Kinh Điển, phải kể đến chuyện Đường Tăng đi thỉnh kinh bên Tây Trúc. Đây là câu chuyện có thật với việc thật người thật, không hư cấu như tác phẩm Tây Du Ký của tác giả Ngô Thừa Ân.

Nhân vật Đường Tăng chính là nhà Sư Trần Huyền Trang, bạn kết nghĩa với vua Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Người mang trọng trách sang xứ Ấn Độ để thỉnh kinh sách của Phật về. Kể từ thời Đường Thái Tông đến Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên, công việc phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển từ tiếng Phạn ra tiếng Hán rất cực thịnh, biết bao Bộ Kinh Đại Thừa đã được truyền tụng đến hôm nay. Và các Cao Tăng của Việt Nam cũng đã miệt mài dịch ra tiếng Việt gần trọn bộ các Đại Tạng Kinh. 

Trước thời nhà Đường khoảng 200 năm, cũng có vị Cưu Ma La Thập dịch thuật kinh điển, nhưng không rầm rộ và đầy đủ như dưới thời nhà Đường. 



Trở lại với các say mê về việc khắc tượng Phật trên đá của Bà từ thuở xa xưa. Tại khu vực hang đá Long Môn, tượng Phật Đại Nhật - Tỳ-lô-giá-na (Vairocana) cao 17,14 mét ở chùa Phụng Tiên, được tự hào gọi là tượng Võ Tắc Thiên, một "Mona Lisa Đông Phương" hay Thần Vệ Nữ Đông Phương, hay "Bà Mẹ Trung Hoa" với một nghệ thuật điêu khắc tuyệt mỹ. Dù đứng ở bất cứ vị trí nào trong sân Phụng Tiên Tự rộng mênh mông, cũng thấy pho tượng nhìn mình điểm một nụ cười bí ẩn.  

Bon-Cau-Ke-Xuat-Than-001

Phật Đại Nhật (Tỳ-Lô-Giá-Na Vairocana) ở Chùa Phụng Tiên.

Vào thế kỷ thứ 7, trong khi Âu Châu vẫn còn đang sống trong thời kỳ đen tối, đế chế La Mã vừa sụp đổ. Trung Quốc lúc bấy giờ đã bước vào thời kỳ hoàng kim dưới triều đại nhà Đường (618 - 907).

Trong thời gian Bà chấp chính, xã hội an bình, nhân dân an cư lạc nghiệp, hẳn là một chứng tích to lớn khiến bất cứ ai cũng phải công nhận. Quả thật trong thời gian Bà cai trị, đã giúp đỡ kẻ yếu chống lại cường hào, phát triển khoa cử, khuyến khích trồng dâu nuôi tằm và đạt được thành tựu to lớn.

Trong cuốn “Giản biên lịch sử Trung Quốc“ của Sử gia Phạm Văn Lan có viết câu: “Võ Tắc Thiên là một chính trị gia vừa mạnh mẽ, vừa tháo vát“.

Bên cạnh những huyền thoại về Bà, từ những say mê quyền chức đến những bí ẩn chưa rõ thực hư như: đã dám ra tay sát hại con ruột, hay các đại thần Bà không vừa ý!



Muốn luận công hay luận tội phải phân tích sự việc cho thật rõ ràng mới đưa đến kết luận, khi đã tỏ tường tôi cũng chỉ dám nói câu: "Ai muốn nghĩ sao thì nghĩ" như thâm ý của Bà khi chết cho dựng "Bia vô tự", một tấm bia cao 7 thước không khắc chữ. Phía đầu tấm đá đó chỉ khắc 8 đầu rồng quấn vào nhau. Hai bên thân bia khắc hai con đường, trên con đường đó khắc một con tuấn mã và một con sư tử đực thần thái uy nghiêm. Thuật điêu khắc tinh vi như vậy thật hiếm có trong lịch sử.



Ý đồ lập bia không chữ để người đời sau bình phẩm mình, chứ không tự mình đánh giá. Không khắc chữ của người đời Đường, nhưng người đời sau như nhà Tống, nhà Minh lại khắc lên 42 đoạn đề tự. Gồm có 32 đoạn ở phía Nam, 10 đoạn phía Bắc, bắt đầu từ đời Tống, kết thúc vào đời Minh, có chữ của đàn ông, có chữ của phụ nữ. Trong đó có một bài thơ thất ngôn tứ cú đời Minh như sau:

Càn Lăng tùng bách tao binh tiễn,
Mãn dã ngưu dương xuân thảo tề.
Duy hữu Càn nhân hoài cựu đức,
Niên niên mạch phạn tự chiêu nghi.

Tạm dịch:
Tùng bách Lăng Càn gặp binh lửa,
Bò dê đầy đồng cỏ xuân đủ.
Chỉ có người Càn ôm đức cũ,
Hàng năm cơm gạo tế rõ ràng.


Thi nhân hoài niệm Võ Tắc Thiên vô số kể, Quách Mạc Nhược, nhà văn học, nhà sử học, người ngưỡng mộ văn hóa Trung Quốc đương đại, khi du lịch qua Càn Lăng, đã từng đề thơ thất ngôn bát tuyệt ca ngợi Bà:



Khuy nhiên một tự bi ưu tại,
Lục thập ngũ tân vị lộ thiên.
Quán miện lý đường văn vật thịnh,
Quyền hoành nữ đế trí năng toàn.
Hoàng sào cấu tại lăng vô dạng,
Thuật đức kỷ tàn thế bất truyền.
Đãi đáo u cung trùng khải nhật,
Hoàn kỳ phiên án tục tân biên.
Tạm dịch:
Sừng sững không chữ bia vẫn còn,
Sáu mươi lăm khách đứng lộ thiên.
Áo mão Lý Đường văn vật thịnh,
Nữ Đế cân nhắc trí năng toàn.
Trứng vàng nơi cổng lăng không bệnh,
Kể đức ghi công không truyền lại.
Đợi đến ngày cung sâu lại mở,
Còn kỳ hủy án tiếp tục ghi.



Tấm bia không chữ này cũng mang theo nhiều huyền thoại khó quên, kẻ cho rằng bà Hoàng Đế tự cho mình công cao không thể nói hết, cũng không thể dùng văn tự biểu đạt được. Kẻ thực tế hơn, cho ông con Trung Tôn Lý Hoàng Đế vào trường hợp khó xử, không biết nên dùng từ nào xưng hô với Võ Tắc Thiên, Hoàng Đế hay Mẫu Hậu? 

Các Lăng mộ thuộc tỉnh Quảng Châu, nơi được gọi là “Thung lũng các vị Vua“ của Trung Quốc, phải kể đến Càn Lăng, nơi yên giấc của hai vị Hoàng Đế: Võ Tắc Thiên và Đường Cao Tông. Khám phá lăng mộ này giống như đang lạc vào thế giới của kinh đô cũ, một Trường An thu nhỏ. Có khoảng 103 tượng đá lớn với 61 bức tượng bị mất đầu với nhiều nhát chém đầy bí ẩn!!!

Bon-Cau-Ke-Xuat-Than-002

Bia Vô Tự tại Càn Lăng tỉnh Thiểm Tây.

Bon-Cau-Ke-Xuat-Than-003

Dọc đường vào Càn Lăng.

Bon-Cau-Ke-Xuat-Than-004

Những bức tượng đá bị mất đầu đầy bí ẩn.

Ngoài ra người viết xin kể một câu chuyện bên lề có liên quan đến danh hiệu của Ngài Quán Thế Âm trong thời đại nhà Đường. Nhiều lúc đọc sách báo kinh điển, thấy thiên hạ gọi Ngài khi thì Quán Âm, lúc thời Quán Thế Âm. Vậy tên nào là đúng? Xin thưa, cả hai đều đúng!

Nguyên do là từ thời Đường Thái Tông, thiên hạ sợ phạm húy gọi tên tục của Vua Lý Thế Dân, nên "Mẹ hiền Quán Thế Âm" của chúng ta phải mất đi một chữ. Cũng giống như thời vua chúa nhà Nguyễn, có một Bà Phi được sủng ái tên Hoa, thế là mọi loài hoa phải đổi thành "Huê", kể cả thành ngữ "Nước chảy huê trôi".



Trước khi chấm dứt bài viết, tôi muốn bộc lộ đôi lời nhận xét về nhân vật Nữ Hoàng Đế độc nhất vô nhị của Trung Hoa, người mà tôi mỗi ngày đều ngưỡng mộ qua 4 câu Kệ xuất thần của Bà. 



Theo cái nhìn của tôi, một người có tâm tu, có tâm nghĩ đến Phật Pháp và hoằng dương Chánh Pháp làm nhiều Phật sự như Bà, ắt sẽ có tâm sáng suốt, nhẹ nhàng thanh tịnh, chứ không bị tâm ái dục chi phối. Nếu còn là người phàm nhiều lúc Bà cũng bị các con "Ma Ái" mê hoặc, nhưng anh chàng Ngự Lâm Quân "Chánh Niệm" của Bà luôn túc trực bên cạnh để bảo vệ, giúp Bà hoàn thành các tâm nguyện lợi ích cho người, cho đời và cho Tam Bảo. 



Về chuyện người đời gán cho Bà danh hiệu "Vị Nữ Hoàng Đế tàn ác nhất trong lịch sử loài người", cần phải xem xét lại!??? Có thấy dân chúng Trung Hoa thời bấy giờ ca thán một lời nào về Bà đâu? Họ làm thơ khen ngợi không tiếc lời thì có! Cứ đến Càn Lăng đọc 42 đề tự khắc trên Bia Vô Tự của người đời sau ca tụng Bà sẽ rõ. 

Còn thời đại hiện tiền của Trung Hoa bây giờ, được mệnh danh là "Xã hội chủ nghĩa", vì nước vì dân như thế nào? Các lãnh tụ từ đời này sang đời khác có thể đem hai chữ "tàn ác" ra so sánh được với Bà không? Họ còn là "Tổ Sư" hơn ai hết! Dám đem cả con Vi-rút Vũ Hán ra giết cả thế giới, vừa nhanh lại vừa gọn mà tay vẫn sạch như không. Thế mới tài tình! 

Và tin tức hiện tại cho biết, họ còn dùng mìn phá nổ các tượng Phật bằng đá khắc trong hang đá Long Môn, muốn xóa tan một kỳ quan thế giới về văn hóa nghệ thuật điêu khắc của Phật Giáo. Các Sử gia chân chính ở nơi đâu???

Hoa Lan - Thiện Giới. 

Mùa hè 2020.

Nguồn tham khảo:

. https://www.youtube.com/watch?v=a9EEHvw5Ggc&t=2026s Nữ Hoàng Đế Võ Tắc Thiên | TT Thích Nguyên Tạng giảng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2021(Xem: 5536)
Mới đó mà Ông ra đi đã 5 năm rồi! Tháng 5 lại trở về. Nhớ đến Ông tôi lại muốn viết mà có lẽ viết bao nhiêu cũng không đủ. Ông ra đi đã để lại một niềm xúc động trong trái tim tôi, và không chỉ riêng tôi mà còn biết bao người, bao gia đình đã được Ông cứu vớt từ con tàu CAP ANAMUR khi những con thuyền người Việt lênh đênh trên đường vượt biên ngày nào. Ông chính là đại ân nhân của gia đình tôi, vì nếu không có Ông, con tôi đã nằm trong bụng cá từ lâu rồi. Chính vì vậy, gia đình tôi vẫn nhớ ơn Ông đời đời và cũng thật bàng hoàng đau đớn lúc hay tin Ông đã lìa cõi trần. Bây giờ ngồi nhớ lại nỗi đau ấy vẫn còn như đâu đây.
09/06/2021(Xem: 5039)
Kể từ khi con người mới bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu nầy. Trong trang nghiêm kiếp của quá khứ, hiền kiếp của hiện tại, hay tinh tú kiếp của tương lai thì sự tu học của chư Tăng Ni và Phật tử vẫn là những điều kiện cần thiết để xiển dương giáo lý Phật đà. Nhằm tiếp nối tinh hoa tuệ giác siêu việt của chư Phật, chư Bồ tát, chư vị Tổ sư đã kinh qua trong suốt nhiều đời, nhiều kiếp mới có được sự kế tục đến ngày hôm nay. Nếu dùng thời gian hiện tại của kiếp nầy, kể từ thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giáng thế đến nay chỉ trên 2.500 năm, mà chúng ta đã có vô số văn kiện và dữ liệu để tham cứu học hỏi, tu niệm, và cần bàn đến. Gần gũi và trung thực nhất là hai bộ thánh điển Phật giáo của truyền thống Nam và Bắc truyền. Nếu căn cứ theo đó để nghiên cứu thì chúng ta sẽ có một đáp án tương đối chính xác để ghi nhận những giá trị về Văn hóa và Giáo dục xuyên qua nhiều tâm lực và nguyện lực của các bậc tiền nhân.
09/06/2021(Xem: 5874)
NHƯ LỜI GIỚI THIỆU CỦA ARTHUR Zajonc, cuộc gặp gỡ Tâm thức và Đời Sống lần thứ mười đã đưa chúng ta vào một hành trình dài, từ những thành phần đơn giản nhất của vật chất đến sự phức tạp của ý thức con người. Cuốn sách này theo dõi hành trình đó diễn ra trong suốt một tuần trong một căn phòng chật cứng tại tư dinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma trên ngưỡng cửa của dãy Himalaya. Làm thế nào để bắt đầu theo dõi quỹ đạo đầy tham vọng, dường như bao la này? Chúng ta sẽ bắt đầu với tuyên bố mờ đầu thuyết trình của Steven Chu, nhà vật lý đoạt giải Nobel: “Điều quan trọng nhất mà chúng ta biết là thế giới được tạo ra từ các nguyên tử. Đây là quan điểm mà hầu hết các nhà vật lý ngày nay, vào đầu thế kỷ XXI, đồng ý với quan điểm này ”.
09/06/2021(Xem: 6352)
Trong Phật bảo, pháp bảo và Tăng bảo, Chúng con quy y cho đến khi đạt đến giác ngộ. Qua công đức của thực hành sáu ba la mật, Nguyện cho chúng con thành tựu quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
07/06/2021(Xem: 13951)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
07/06/2021(Xem: 14467)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68. Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
07/06/2021(Xem: 13175)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 9 tháng 7 năm 2018, trong mùa An Cư Kiết Hạ của năm Mậu Tuất, Phật lịch 2562 này, tôi bắt đầu đặt bút viết tác phẩm thứ 66 của mình sau hơn 45 năm (1974-2018) cầm bút và sau hơn 42 năm ở tại Âu Châu (1977-2018). Những sách của tôi viết bằng tiếng Việt hay dịch từ các ngôn ngữ khác ra Việt ngữ như: Anh, Đức, Hán, Nhật đều đã được in ấn và xuất bản với số lượng ít nhất là 1.000 quyển và có khi lên đến 2.000 quyển hay 5.000 quyển. Vấn đề là độc giả có nắm bắt được bao nhiêu phần trăm ý chính của kinh văn hay của sách dịch lại là một việc khác. Người viết văn, dịch sách cũng giống như con tằm ăn dâu thì phải nhả tơ, đó là bổn phận, còn dệt nên lụa là gấm vóc là chuyện của con người, chứ không phải của con tằm.
05/06/2021(Xem: 6576)
Sự ra đời của Đức Phật Thích Ca theo Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2565- 2021 có đoạn ghi “Bản nguyện của ngài là gì khi hóa thân đến trần gian này?” Một câu hỏi mang đầy ý nghĩa nhất cần phải khai triển. Sự hóa thân xuống trần này với mục đích mở một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên cho đến ngày nay chưa từng có của loài người, đó là một kỷ nguyên trí tuệ và từ bi. Trước khi đi sâu vào trí tuệ và từ bi, trước hết ta quán chiếu đầu tiên sự xuất hiện bằng cách hóa thân của ngài xuống trần gian này.
03/06/2021(Xem: 5835)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Chủ Nhật (May 30) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Rampur Village & Katiya Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 363 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 14 cây số.
03/06/2021(Xem: 3429)
Nghe vẻ nghe ve, Nghe vè họ nói Chuyện người chuyện sói. Sói nói tiếng người
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]