Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hai Bài Kệ Trên Vách

21/08/202013:43(Xem: 5108)
Hai Bài Kệ Trên Vách

Tùy bút

HAI BÀI KỆ TRÊN VÁCH

Hai Bài Kệ Trên Vách-1

Trên vách hai bên tả hữu mặt tiền của chánh điện An Tường Ni Tự (phường Vĩnh Phước- Nha Trang), khi đứng ngắm nghía để chụp hình, tôi thấy có hai bản thư pháp tiếng Hán, tạm gọi là vậy, được chạm nổi và được sơn màu nâu trên nền màu vàng nhạt, rất ấn tượng.

Là người dốt đặc tiếng Hán, nên tôi không hiểu chút xíu xiu mảy may nào về ý nghĩa của hai bản thư pháp này, nhưng nhìn cách trình bày theo "ngũ ngôn tứ cú" thì tôi cũng đoán ra được đó có lẽ là hai bài... thơ, mà nếu đang được chạm nổi trên vách của chánh điện chùa thì dám chắc luôn phải là hai bài... Kệ.

Đoán chắc là Kệ rồi, nhưng rồi khi về nhà xem lại ảnh qua màn hình máy vi tính, tôi lại muốn chắc hơn, nên đã xin thọ giáo một vị Thầy mà tôi luôn kính trọng, qua mạng thông tin điện tử. Thầy là vị “giáo thọ sư online" của tôi bao lâu nay. Thầy xác nhận đúng đó là hai bài Kệ. Không chờ tôi hỏi tới "Là bài kệ gì? Là kệ trong kinh trong sách nào? Là kệ của ai? Ý nghĩa của cả hai bài kệ là gì?", Thầy giải mở hết một lần luôn, như vừa mở toang các cánh cửa của một thư phòng u tối cho ánh sáng ùn vào bên trong vậy!

Hai bài kệ này trích trong "Lục Tổ Đàn Kinh" rất nổi tiếng và phổ biến từ hơn một thế kỷ qua, và là hai bài kệ do hai vị đệ tử xuất chúng của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn viết - đọc ra khi trình kệ lên sư phụ.

Thầy giáo thọ của tôi hướng dẫn trước, đọc kệ tiếng Hán phải đọc từ phải rồi mới qua trái, vì vậy phải đọc bài bên vách phải trước (lưu ý là vách bên phải của người đang đứng ngoài sân nhìn vào chùa mà đọc, chứ không phải vách phải của chánh điện nhìn ra!), rồi đọc đến Kệ cũng vậy, đọc từ câu bên phải ngoài cùng đọc qua trái!

Chữ Hán có 5 kiểu viết (gọi là thư thể) chính: Triện thư, lệ thư, khải thư, hành thư, và thảo thư. Thảo thư là lối được viết nhanh nhất, bút pháp phóng khoáng, bay bướm lả lướt, uốn éo phượng múa rồng bay, và hai bài kệ trên vách chùa An Tường này đã được viết theo lối hành Thảo. Khi nào xem cho kỹ ảnh, chư vị sẽ thấy chữ "Nhất" trong bài kệ trên vách bên trái được viết như... vẽ một Con Vịt Con,

Bài kệ trên vách bên phải là bài kệ của Ngài Thần Tú:

Thân thị bồ-đề thọ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.”

(Thân là cây bồ đề

Tâm như đài gương sáng

Phải luôn lau chùi sạch

Chớ để bụi trần bám)

Bài kệ trên vách bên trái là của Ngài Lục tổ Huệ Năng;

Bồ-đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?”

(Bồ-đế vốn chẳng cây

Gương sáng cũng không đài

Xưa nay không một vật

Bụi trần bám vào đâu?)

Ngạc nhiên chưa? Có ai ngạc nhiên không? Chư vị nào biết Hán ngữ rành giỏi rồi chắc sẽ đáp rằng chẳng có gì ngạc nhiên hết, vì đọc là biết, đọc là hiểu ngay, chứ còn ngạc nhiên chi nữa?Còn chư vị nào hoàn toàn mù tịt tiếng Hán tiếng Nôm như tôi thì chắc cũng sẽ "Ồ" lên thích thú, như ông ngư dân lần đầu tiếng nhìn thấy một con cá Nục to đùng bèn thốt lên "Ồ... Ồ... Ồ!", để rồi con cá đó nó chết tên luôn là "Con Cá Ồ", hihihi...
Nhưng, ở đây tôi không dám bình luận, mổ xẻ đào sâu vào thâm ý hay huyền nghĩa của hai bài kệ đã gây biết bao cuộc tranh luận trong Thiền học, mà tôi chỉ muốn nói đến cái sự ngạc nhiên của mình:

Một ngôi Ni Tự không cổ lắm, mà cũng không mới lắm, chuyên tu Tịnh Độ, thì sao lại cung kính trân trọng đưa cả hai bài kệ Thiền tông nổi tiếng bậc nhất ra trước vách của ngôi chánh điện? Ngay lúc được "Giáo thọ sư online" giải cho biết, tôi đã ngạc nhiên điều đó rồi. Ngạc nhiên vì thích thú, thích thú vì có cái cớ để từ nay về sau đàm đạo với chư vị đạo hữu tôi sẽ nhắc nhở rằng:

"Đừng bao giờ phân biệt Mật Tịnh Thiền, đừng tách rời cả ba ra riêng biệt để rồi phân chia tông này phái nọ. Trong Tịnh luôn có Thiền và Mật. Trong Thiền luôn có Mật và Tịnh. Trong Mật luôn có Tịnh và Thiền!"

Tôi chỉ muốn nhắn nhiêu đó thôi. Thật vậy. Vì lâu nay có nhiều đạo hữu mang tâm phân biệt giữa Mật Tịnh Thiền, thường hay nói với tôi:
"Tôi tu Thiền nên tôi không tụng kinh kia kinh nọ bên Tịnh Độ!"
"Tôi tu Mật tông nên tôi chỉ tập trung vào trì chú, đà la-ni... không cần tụng kinh bên Thiền bên Tịnh!"
"Tôi tu Tịnh Độ nên tôi chỉ chuyên chú niệm Lục Tự A Di Đà, lần chuỗi hạt mà niệm chứ không cần ngồi Thiền, hay bắt ấn trì chú!"

Từ sự phân biệt tông phái đó, nhóm này phê phán nhóm kia, chùa nọ đàm tiếu chùa này, đả kích chê bai nhau, rồi đến "chùa của tui, chùa của thầy tui, đạo tràng của tui, ban hộ niệm của tui..." được sinh ra và ... sống khỏe.
Vị "giáo thọ sư online" của tôi kết thúc buổi học chớp nhoáng bằng lời khuyên:

"Thực ra thì người phật-tử mới nhập đạo chỉ nên đọc và thực hành bài kệ của Tổ Thần Tú. Rất là căn bản! Cứ như vậy mà đi tới.Khi đến một trình độ khá cao, định lực và trí tuệ vững chãi, mới tự động nhảy vào cõi vô chấp của Huệ Năng được. Chứ lơ tơ mơ mới học đạo mà bày đặt phá chấp là sẽ hỏng hết!"

Nam mô Phật!



Tâm Không Vĩnh Hữu

Hai Bài Kệ Trên Vách-5Hai Bài Kệ Trên Vách-4Hai Bài Kệ Trên Vách-3Hai Bài Kệ Trên Vách-2

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/05/2019(Xem: 7845)
Đến tận giây phút này, giờ phút ngồi trước máy tính gõ bàn phím, khi tóc đã bạc sương vào tuổi sáu mươi của đời người ngắn ngủi, tôi vẫn còn nhớ như in buổi học môn Văn của lớp 9/5. Thầy, tôi nhớ không lầm là thầy dạy thế, tạm thời đứng lớp thay cho thầy Xuân mới chuyển công tác, nên cái duyên kết dính với lớp của tôi rất mỏng manh. Buổi học đó thầy giảng đến bài “Các thể loại Thơ”, cứ mỗi thể thơ nhắc đến đều được thầy đưa ví dụ một bài thơ tiêu biểu, và đến thể thơ “Ngũ ngôn” thì thầy đọc ngâm: “Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu, giấy đỏ Bên phố đông người qua…”
17/05/2019(Xem: 7005)
Theo Yahoo News ngày 19/11/2018, nữ dân biểu Hồi Giáo ILhan Omar vừa đắc cử ở Minnesota (nơi đông đảo sắc dân Somalia) nói rằng bà sẽ tranh đấu để hủy bỏ lệnh cấm mang khăn trùm đầu tại phòng họp của Hạ Viện kéo dài đã 181 năm. Các dân biểu của Đảng Dân Chủ tuần rồi loan báo (vào Tháng Giêng 2019) họ sẽ thay đổi luật cấm choàng khăn tại đây mà điều luật này cũng có nghĩa là cấm đội khăn trùm đầu mà Bà Omar đang đội. Bà Omar còn nói rằng, không ai trùm chiếc khăn này lên đầu tôi. Đó là lựa chọn của tôi và nó được Tu Chính Án Số Một bảo vệ. (No one puts a scarf on my head but me, Omar wrote. “It’s my choice - one protected by the First Amendment.)
16/05/2019(Xem: 8357)
Từ Bi là căn bản của đạo, căn bản của tất cả pháp lành, như đã được Đức Phật thuyết trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai (Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Phạm Hạnh (1999, PL2543), tr.520, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh). Vì thế, người con Phật không thể không thực hành hạnh từ bi.
14/05/2019(Xem: 16603)
Ở tuổi 65 của năm nay là tuổi bắt đầu đi xuống. Bệnh tật đã thể hiện ở thân và từ từ thì giờ dành cho Bác sĩ cũng như Nha sĩ nhiều hơn những năm trước; nhưng trong tâm tôi vẫn luôn cố gắng là lạy cho xong quyển 2 của bộ kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi chữ mỗi lạy trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Viên Giác Hannover. Đó là tâm nguyện của tôi, mong rằng sức khỏe sẽ cho phép để thực hiện xong nguyện vọng đã có từ hơn 30 năm nay tôi vẫn cùng Đại chúng chùa Viên Giác tại Hannover trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ thường thực hành như vậy. Đây không phải là việc khoa trương, mà là một pháp tu, một hạnh nguyện. Do vậy tôi vẫn thường nói rằng: Nếu sau nầy tôi có ra đi, mọi việc khen chê hãy để lại cho đời; chỉ nên nhớ một điều là từ 50 năm nay (1964-2014) trong suốt 50 năm trường ấy tôi đã hành trì miên mật kinh Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa, tại tư gia hay trên máy bay, xe hơi, tàu hỏa v.v… và cũng trong suốt 30 năm (1984-2014) vào mỗi tối từ 20 giờ đến 21 giờ 30 trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ
12/05/2019(Xem: 8561)
Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau: Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.
12/05/2019(Xem: 6453)
Kinh luận của Phật giáo nói với chúng ta rằng trên việc thực chứng tánh không, vọng tưởng về sự tồn tại cố hữu yếu đi, nhưng điều này không phải như sau một sự thực chứng đơn lẻ, ngắn gọn.
10/05/2019(Xem: 5621)
Y vàng thanh thoát chốn chùa chiền, Tỏa sáng niềm tin tỏa ánh thiêng Pháp lữ huân tu nền định tuệ Tăng thân trưởng dưỡng giới hương thiền An Cư thúc liễm ngời hoa giác Kiết Hạ tu trì rạng sắc liên K Nhưng tại sao lại khó như vậy ?có phải chăng, vì muốn được thân người, phải cả đời giữ gìn ngũ giới nghiêm ngặt:(1/ không sát sanh, 2/ không trộm cướp, 3/ không tà dâm. 4/ không nói dối, 5/ không uống ruợu). Nhưng vì sự hấp dẫn của “ngũ dục”(tài, sắc, danh, thực, thuỳ) để rồi thuận theo dòng vô minh, xem những tiện nghi vật chất trên thế gian này là trường tồn vĩnh viễn, là hạnh phúc muôn đời, xem những thành công về hình tướng là sự thành tựu chí nguyện, nên mặc sức để cho dòng đời lôi cuốn vào đường “thị phi”, “danh lợi” xem việc hưởng thụ “ngũ dục” là lẽ đương nhiên, là vinh dự và hạnh phúc. Từ đó lơ đểnhnăm điều cấm giới.Một khi sức giữ năm giới cấm, một cáchlơ là,mãi “lang thang làm kiếp phong trần, quê nhà ngày một muôn lần dặm xa”thì cơ hội kiếp sau làm lại được thân người,
09/05/2019(Xem: 7220)
Bà La Môn Giáo là Đạo giáo có xuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử. Họ phân chia giai cấp để trị vì thiên hạ, mà giai cấp đầu tiên là giai cấp Bà La Môn, gồm các Giáo Sĩ, rồi Sát Đế Lợi gồm những Vua, Chúa quý Tộc. Kế đó là Phệ Xá gồm những thương nhơn, Thủ Đà La và cuối cùng là hạng cùng đinh . Những người có quyền bính trong tay như Bà La Môn hay Giáo Sĩ, họ dựa theo Thánh Kinh Vệ Đà để hành xử trong cuộc sống hằng ngày; nghĩa là từ khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, học hành, thi cử, ra làm việc nước và giai đoạn sau đó là thời kỳ họ lánh tục, độ tuổi từ 40 trở lên và họ trở thành những vị Sa Môn sống không gia đình, chuyên tu khổ hạnh để tìm ra chân lý.
08/05/2019(Xem: 7235)
Tùy duyên là hoan hỷ chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại, ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi nhân duyên thích hợp hội tụ. Nhiều khi chính thái độ ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi ấy lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác.
06/05/2019(Xem: 7827)
Được đăng trong Advice from Lama Zopa Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche News and Advice. Trong khóa thiền lamrim dài tháng tại Tu Viện Kopan năm 2017, Lama Zopa Rinpoche đã dạy về nghiệp, giảng giải một vần kệ từ Bodhicharyavatara (Hướng Dẫn Về Bồ Tát Hạnh) của ngài Tịch Thiên (Shantideva), đạo sư Phật giáo vĩ đại vào thế ký thứ 8 của Ấn Độ. Đây là những điều Rinpoche đã dạy: Tác phẩm Bodhicharyavatara có đề cập rằng “Trong quá khứ, tôi đã hãm hại những chúng sanh khác như thế, vì vậy nên việc chúng sanh hại tôi là xứng đáng. Đối với tôi thì việc nhận lãnh sự hãm hại này là xứng đáng.”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]