Tùy bút
HAI BÀI KỆ TRÊN VÁCH
Trên vách hai bên tả hữu mặt tiền của chánh điện An Tường Ni Tự (phường Vĩnh Phước- Nha Trang), khi đứng ngắm nghía để chụp hình, tôi thấy có hai bản thư pháp tiếng Hán, tạm gọi là vậy, được chạm nổi và được sơn màu nâu trên nền màu vàng nhạt, rất ấn tượng.
Là người dốt đặc tiếng Hán, nên tôi không hiểu chút xíu xiu mảy may nào về ý nghĩa của hai bản thư pháp này, nhưng nhìn cách trình bày theo "ngũ ngôn tứ cú" thì tôi cũng đoán ra được đó có lẽ là hai bài... thơ, mà nếu đang được chạm nổi trên vách của chánh điện chùa thì dám chắc luôn phải là hai bài... Kệ.
Đoán chắc là Kệ rồi, nhưng rồi khi về nhà xem lại ảnh qua màn hình máy vi tính, tôi lại muốn chắc hơn, nên đã xin thọ giáo một vị Thầy mà tôi luôn kính trọng, qua mạng thông tin điện tử. Thầy là vị “giáo thọ sư online" của tôi bao lâu nay. Thầy xác nhận đúng đó là hai bài Kệ. Không chờ tôi hỏi tới "Là bài kệ gì? Là kệ trong kinh trong sách nào? Là kệ của ai? Ý nghĩa của cả hai bài kệ là gì?", Thầy giải mở hết một lần luôn, như vừa mở toang các cánh cửa của một thư phòng u tối cho ánh sáng ùn vào bên trong vậy!
Hai bài kệ này trích trong "Lục Tổ Đàn Kinh" rất nổi tiếng và phổ biến từ hơn một thế kỷ qua, và là hai bài kệ do hai vị đệ tử xuất chúng của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn viết - đọc ra khi trình kệ lên sư phụ.
Thầy giáo thọ của tôi hướng dẫn trước, đọc kệ tiếng Hán phải đọc từ phải rồi mới qua trái, vì vậy phải đọc bài bên vách phải trước (lưu ý là vách bên phải của người đang đứng ngoài sân nhìn vào chùa mà đọc, chứ không phải vách phải của chánh điện nhìn ra!), rồi đọc đến Kệ cũng vậy, đọc từ câu bên phải ngoài cùng đọc qua trái!
Chữ Hán có 5 kiểu viết (gọi là thư thể) chính: Triện thư, lệ thư, khải thư, hành thư, và thảo thư. Thảo thư là lối được viết nhanh nhất, bút pháp phóng khoáng, bay bướm lả lướt, uốn éo phượng múa rồng bay, và hai bài kệ trên vách chùa An Tường này đã được viết theo lối hành Thảo. Khi nào xem cho kỹ ảnh, chư vị sẽ thấy chữ "Nhất" trong bài kệ trên vách bên trái được viết như... vẽ một Con Vịt Con,
Bài kệ trên vách bên phải là bài kệ của Ngài Thần Tú:
“Thân thị bồ-đề thọ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.”
(Thân là cây bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Phải luôn lau chùi sạch
Chớ để bụi trần bám)
Bài kệ trên vách bên trái là của Ngài Lục tổ Huệ Năng;
“Bồ-đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?”
(Bồ-đế vốn chẳng cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Bụi trần bám vào đâu?)
Ngạc nhiên chưa? Có ai ngạc nhiên không? Chư vị nào biết Hán ngữ rành giỏi rồi chắc sẽ đáp rằng chẳng có gì ngạc nhiên hết, vì đọc là biết, đọc là hiểu ngay, chứ còn ngạc nhiên chi nữa?Còn chư vị nào hoàn toàn mù tịt tiếng Hán tiếng Nôm như tôi thì chắc cũng sẽ "Ồ" lên thích thú, như ông ngư dân lần đầu tiếng nhìn thấy một con cá Nục to đùng bèn thốt lên "Ồ... Ồ... Ồ!", để rồi con cá đó nó chết tên luôn là "Con Cá Ồ", hihihi...
Nhưng, ở đây tôi không dám bình luận, mổ xẻ đào sâu vào thâm ý hay huyền nghĩa của hai bài kệ đã gây biết bao cuộc tranh luận trong Thiền học, mà tôi chỉ muốn nói đến cái sự ngạc nhiên của mình:
Một ngôi Ni Tự không cổ lắm, mà cũng không mới lắm, chuyên tu Tịnh Độ, thì sao lại cung kính trân trọng đưa cả hai bài kệ Thiền tông nổi tiếng bậc nhất ra trước vách của ngôi chánh điện? Ngay lúc được "Giáo thọ sư online" giải cho biết, tôi đã ngạc nhiên điều đó rồi. Ngạc nhiên vì thích thú, thích thú vì có cái cớ để từ nay về sau đàm đạo với chư vị đạo hữu tôi sẽ nhắc nhở rằng:
"Đừng bao giờ phân biệt Mật Tịnh Thiền, đừng tách rời cả ba ra riêng biệt để rồi phân chia tông này phái nọ. Trong Tịnh luôn có Thiền và Mật. Trong Thiền luôn có Mật và Tịnh. Trong Mật luôn có Tịnh và Thiền!"
Tôi chỉ muốn nhắn nhiêu đó thôi. Thật vậy. Vì lâu nay có nhiều đạo hữu mang tâm phân biệt giữa Mật Tịnh Thiền, thường hay nói với tôi:
"Tôi tu Thiền nên tôi không tụng kinh kia kinh nọ bên Tịnh Độ!"
"Tôi tu Mật tông nên tôi chỉ tập trung vào trì chú, đà la-ni... không cần tụng kinh bên Thiền bên Tịnh!"
"Tôi tu Tịnh Độ nên tôi chỉ chuyên chú niệm Lục Tự A Di Đà, lần chuỗi hạt mà niệm chứ không cần ngồi Thiền, hay bắt ấn trì chú!"
Từ sự phân biệt tông phái đó, nhóm này phê phán nhóm kia, chùa nọ đàm tiếu chùa này, đả kích chê bai nhau, rồi đến "chùa của tui, chùa của thầy tui, đạo tràng của tui, ban hộ niệm của tui..." được sinh ra và ... sống khỏe.
Vị "giáo thọ sư online" của tôi kết thúc buổi học chớp nhoáng bằng lời khuyên:
"Thực ra thì người phật-tử mới nhập đạo chỉ nên đọc và thực hành bài kệ của Tổ Thần Tú. Rất là căn bản! Cứ như vậy mà đi tới.Khi đến một trình độ khá cao, định lực và trí tuệ vững chãi, mới tự động nhảy vào cõi vô chấp của Huệ Năng được. Chứ lơ tơ mơ mới học đạo mà bày đặt phá chấp là sẽ hỏng hết!"
Nam mô Phật!