Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhà Nghiên cứu Phật học Uyên thâm, nhà Ngôn ngữ học, Cư sĩ Sandy Huntington đã về Cõi Phật

01/08/202013:50(Xem: 5994)
Nhà Nghiên cứu Phật học Uyên thâm, nhà Ngôn ngữ học, Cư sĩ Sandy Huntington đã về Cõi Phật

Nhà Nghiên cứu Phật học Uyên thâm, nhà Ngôn ngữ học, Cư sĩ Sandy Huntington đã về Cõi Phật

 Cư sĩ Sandy Huntington

Sau sáu tháng với căn bệnh ung thư tuyến tụy, Cư sĩ Sandy Huntington đã an nhiên trút hơi thở về cõi Phật vào hôm Chủ nhật, ngày 19 tháng 7 năm 2020. Hưởng thọ 72 tuổi.

 

Tóm lược tiểu sử Cư sĩ Sandy Huntington

(1949–2020)

 

Cư sĩ Sandy Huntington sinh ngày 24 tháng 2 năm 1949, ông sinh ra và trưởng thành tại East Lansing, Michigan, một thành phố thuộc quận quận trong tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ và học đại tại bang Michigan. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông đi du lịch đến Na Uy, học tiếng Na Uy và bắt đầu say mê học ngôn ngữ và văn học suốt đời.

 

Khi trở về Hoa Kỳ, ông đăng ký vào một chương trình khoa học thư viện tại Đại học Michigan, sau đó chuyển sang ngôn ngữ học, và cuối cùng tìm được một ngôi nhà lý tưởng trong Ngôn ngữ và Văn hóa Châu Á.

 

Dưới sự hướng dẫn của Giáo sư danh dự Ngôn ngữ và Văn hóa Á Châu tại Đại học Michigan, Trưởng lão cư sĩ Luis Oscar Gómez (1943-2017), một học giả nổi tiếng, thông dịch viên Phật giáo, nhà giáo dục học và tôn giáo châu Á, nhà giáo dục Tâm lý lâm sàng, cư sĩ Sandy Huntington tập trung vào nghiên cứu Phật học và đạt học vị Tiến sĩ.

 

Là một phần của khóa đào tạo hậu Đại học, ông học tiếng Phạn với Tiến sĩ Madhav Deshpande, giáo sư nghiên cứu tiếng Phạn và Ấn Độ giáo tại Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Châu Á, và sau đó ông sống bốn năm tại Ấn Độ (1976-1979), nơi ông tiếp tục học Phạn ngữ với các học giả Phật giáo Ambika Datta Upādhyāya và Ram Shankar Tripathi (1929-2019), ông cũng học thêm tiếng Hindi và Tây Tạng.

 

Nhiều lần trong đời, ông đã đi đến Ấn Độ, đặc biệt là Banāras, một thành phố thánh và là trung tâm trong suốt hàng nghìn năm của Hindu giáo nằm bên bờ sông Hằng ở bang Uttar Pradesh, Ấn Độ; đối với ông là quê hương thứ hai. Ông đã trải qua một mùa hè đáng chú ý ở vùng Mussoorie, đồi thấp dưới chân núi Himalaya và dịch tác phẩm “Candrakīrti’s Madhyamakāvatāra with Geshé Namgyal Wangchen”. Bản dịch này, cùng với lời bình luận của ông, sau đó đã được xuất bản với tựa đề “The Emptiness of Emptiness: An Introduction to Early Indian Madhyamika” (Hawaii UP, 1989), vẫn là một văn bản tinh túy cho sinh viên triết học Phật giáo.

 

Lần đầu tiên, Cư sĩ Sandy Huntington giảng dạy tại Chương trình Nghiên cứu Phật học tại Đại học Antioch, Ấn Độ, kế đến tại Đại học Michigan (trường đại học công lập nằm tại Ann Arbor của bang Michigan, Hoa Kỳ) và, Trường Đại học Denison (một viện nghiên cứu tư về nghệ thuật tự do và khoa học tại Granville, Ohio, Hoa Kỳ), trước khi gia nhập khoa tại trường Cao đẳng Hartwick, Oneonta, New York, Hoa Kỳ. Nơi đây, ông đã hướng dẫn sinh viên đại học nghiên cứu tôn giáo trong hơn hai thập kỷ và trở thành một giáo sư được nhiều người yêu mến, ông nhận được giải thưởng Margaret L. Bunn về giảng dạy xuất sắc (2004) và giải thưởng giáo viên/học giả (2019).

 

Cư sĩ Sandy Huntington rất hy vọng thu hút các sinh viên của mình cùng hòa nhập vào toàn thể nhân loại của họ, khuyến khích họ mang ánh sáng trí tuệ, bản thân đầy đủ của họ, và thậm chí cả những thứ vượt ra ngoài ngôn ngữ khi họ tham gia với thế giới. Cuối cùng, ông đã dạy một khóa học trong bốn năm gọi là “Thiết kế và xây dựng kiến ​​trúc của thành phố: Kiến trúc của sự linh thiêng” (Architectural Design and Building: Architecture of the Sacred), trong đó các sinh viên đã thiết kế và xây dựng hai công trình bền vững với môi trường, bao gồm một ngôi nhà bằng rơm. Và tám lần ông dạy một khóa học gọi là "Trải nghiệm cận tử" (Near Death Experience, NDE), trong đó các sinh viên học trò của ông làm tình nguyện viên tế bần trong khi đọc về cái chết và suy ngẫm về sự kiện của họ.

 

Sự nghiệp suốt đời của mình, Cư sĩ Sandy Huntington kêu gọi các đồng nghiệp của mình suy ngẫm về triết học Phật giáo về các tính chất về Thông diễn học (hermeneutical) của họ. Những lời phản biện gây gắt của ông được đánh dấu bằng sự sáng tạo khác thường; ông không chỉ giải mã những cách đọc cũ mà còn đưa ra những cách mới. Năm 1992, trong một loạt bài báo, ông và José Cabezón, một vị giáo sư nghiên cứu tôn giáo đáng kính đã tham gia vào một cuộc thảo luận sôi nổi về cách đọc triết học Trung Quán luận (Mādhyamik) của Phật giáo Ấn Độ. Cuộc trò chuyện đã truyền cảm hứng cho một hội thảo tại hội nghị của Hiệp hội Nghiên cứu Phật giáo Quốc tế năm 1995, và các bài báo từ hội thảo đó đã lấp đầy một vấn đề của tạp chí tổ chức đó.

 

Vào năm 2007, ông đã xuất bản một bài báo với tựa đề là “Bản chất của Trung Quán Luận” (Mādhyamik), đã tạo ra một cuộc tranh luận sôi nổi với Tiến sĩ Jay Garfield, Giáo sư Nhân văn tại Đại học Smith, Giáo sư Triết học tại Đại học Melbourne, Giáo sư Triết học và Nghiên cứu Phật giáo tại Trường Thần học Harvard, và Giáo sư Triết học tại Đại học Nghiên cứu Tây Tạng, mà đỉnh điểm là một hội nghị chuyên đề kéo dài thời gian ba ngày tại Đại học Smith năm 2010 với chủ đề: “Trung Quán Luận và Phương pháp Luận” (Madhyamaka and Methodology)

 

Cư sĩ Sandy Huntington cũng là một nhà văn tài năng cho những khán thính giả phi học thuật, làm cho những ý tưởng triết học phức tạp có thể tiếp cận được và khiến chúng trở nên tinh tế. Điều này đã thể hiện rõ nét qua các bài báo của ông viết trong những năm gần đây cho tạp chí Tam thừa (Tricycle) để truyền bá chính pháp Phật đà, và đáng chú ý nhất là trong cuốn tiểu thuyết của ông, Maya “Wisdom Publications, 2015”.  Cuốn sách này là một tác phẩm được thể hiện tuyệt đẹp, phản ánh thời gian ông ở Ấn Độ, kết hợp các chuyến du hành, tự truyện tâm linh và suy tư triết học. Như nữ Tiến sĩ Francisca Cho đã quan sát, “tác giả Maya là một tác phẩm của trí tưởng tượng, và đồng thời yêu cầu người đọc suy ngẫm về trí tưởng tượng như vậy khác với những gì chúng ta hiểu là thực tế. Sự vui tươi này kết nối Maya với các thực hành văn học truyền thống Đông Á, ví dụ như câu chuyện cổ điển trong mơ được lấy cảm hứng từ các lý thuyết Phật giáo về trí tưởng tượng. Đây là cách viết tiểu thuyết mang tính triết học như sáng tạo, và biến nghệ thuật thành tôn giáo mà không cần sự thuyết giáo hay mô phạm”.

 

Cư sĩ Sandy Huntington tiếp tục phát triển những suy nghĩ của mình về sự kết hợp không thể giải thích được của ảo ảnh và hiện thực trong một bài viết về Thể tính của toàn thế giới là Không “Tính Không” của Bồ tát Long Thọ (Nāgārjuna, 2017). Thấy triết học Phật giáo không chỉ là một cuộc tranh luận khác mà là sự xuất hiện của cuộc tranh luận cuối cùng cho phép người ta buông xả, cư sĩ Sandy Huntington đã cho phép công việc của mình ở cả hai thể loại, theo lời kể của người kể chuyện tinh nghịch của Maya, để xác định ngai vàng nơi tôi không thể tìm thấy được.

 

Cư sĩ Sandy Huntington đã dành nhiều năm trong giảng dạy và suy ngẫm về cận tử nghiệp, và khi tử thần sẽ đến với mình, ông đã sử dụng cơ hội để đào sâu kiến thức và thực hành giáo dục, sau đó chia sẻ những hiểu biết của mình. Sau khi chẩn đoán vào tháng 1 vừa qua, ông đã dành những ngày tháng cuối đời để viết cuốn “Cái Chết với Tôi thật Rõ ràng” (What I Don’t Know About Death) Cuốn sách sẽ xuất bản bởi Wisdom Publications vào năm 2021. Chương cuối của ông, được viết chưa đầy hai tháng trước khi ông trút hơi thở cuối cùng và về cõi Phật, kết luận rằng:

 

“Những gì còn lại trong cuộc sống của tôi và chết đi trong hòa bình, vị tử thần phẫn nộ đang dạy tôi trao thân cho cộng đồng nhân loại, và cảm thấy có mối quan hệ họ hàng với thế giới phi nhân loại, một thế giới mà thuộc về tôi luôn không bao giờ đánh giá đầy đủ tầm quan trọng của phụ thuộc đó, một thế giới nơi cơ thể này của tôi hư hoại, giống như tất cả các cơ thể, một cái bóng nhỏ bé, thoáng qua trong sự mêng mông của tạo hóa sự vật. Chỉ trong vài tháng, cử chỉ đã thay đổi, và sau một thời gian học tập và thực hành Phật pháp thậm thâm vi diệu, giờ tôi chỉ đang học, ở đây trong nhà tù cần thiết này, đối với cuộc sống của tôi để giải phóng sự kìm hãm và vì thế tôi yêu tất cả cuộc sống. Vẻ đẹp và sự kinh hoàng, để trao thân vô hạn cho những người khác, con người và con người không phải là trái đất, nơi chúng ta bắt nguồn, hợp tác với bọ cánh cứng và sâu bọ, cỏ và hoa và cây cối, kẻ cướp xây tổ bên ngoài cửa sổ tôi, chim ưng lượn vòng trên cao, mây, gió, mưa và nắng, tất cả những người đã nuôi dưỡng và duy trì tôi về nhà trong suốt hành trình dài. Họ ở trong tôi, và tôi trong họ. Chúng tôi không thể tách rời”.

 

Cuộc sống của cư sĩ Sandy Huntington được sự trợ giúp của Liz, người vợ hiền yêu quý của ông và hai đứa con hiếu thảo, Sam và Katie. Sự ra đi của ông, trần thế sẽ bỏ lỡ sâu sắc nhiều sinh viên, bạn bè và đồng nghiệp của ông.

 

Lip video:

 

C.W. Huntington reads from Maya

https://www.youtube.com/watch?v=0Z3I7cNpqmc

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: The Wisdom Experience)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2019(Xem: 7656)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - (phần 13) vài nhận xét về cách dùng tên bộ phận cơ thể ở phía dưới như lòng, bụng, dạ, ruột[1] cho đến vật âm mình! Nguyễn Cung Thông[2] Phần này bàn về một số cách dùng trong tiếng Việt như lòng, bụng, dạ, ruột thời các LM Alexandre de Rhodes và Jeronimo Maiorica sang An Nam truyền đạo. Đây là những ‘cầu nối’ để có thể giải thích một số cách dùng hiện đại. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đôn Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
14/01/2019(Xem: 6643)
Bài này là phần 4 trong loạt bài viết về hiện tượng đồng hóa âm thanh trong ngôn ngữ với tâm điểm là tiếng Việt. Phần 1 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) qua các cách dùng ròng rọc < rọc rọc, phưng phức < phức phức, nơm nớp < nớp nớp, phấp phất/phất phới/phân phất < phất phất và khám bệnh < khán bệnh. Phần 2 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (thanh điệu) qua các cách dùng Huyền Trang < Huyền Tảng/Tráng, Tịnh Độ < Tịnh Thổ. Phần 3 chú trọng vào cách dùng tẩm liệm so với tấn/ tẫn/tẩn liệm qua khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) như khán bệnh > khám bệnh. Bài này (phần 4) bàn về các dạng phong thanh (phong thinh), phong phanh và phong văn.
11/01/2019(Xem: 6096)
Trước khi bàn về ma, chúng ta thử định nghĩa xem “ma” là gì. Thông thường, ma là người đã chết hay người chết. Đang sống thì là người. Nhưng vừa chết một cái đã thành ma, thây ma. Chính vì thế đám ma là nghi thức hoặc tục lệ để khóc than, để tang, thăm viếng, tiễn đưa hoặc chôn cất, hỏa thiêu người chết.
11/01/2019(Xem: 6504)
Sống chung với nghịch cảnh, đương đầu với chướng duyên, gẫm ra đó cũng chính là một pháp môn tu trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của Đức Phật truyền dạy. Người đã tu học theo Pháp Phật thì chẳng còn lạ gì chuyện “sống chung” và “đương đầu” này! Nhờ chướng duyên mà ta mới thấm thía được lý nhân quả. Nhờ nghịch cảnh mà ta mới nhận thấy rõ vô thường.
09/01/2019(Xem: 5393)
HƯƠNG NHẠC ĐẠI NGÀN Ngàn mùi hương, chỉ có hương giới hạnh mới bay ngược làn gió; vạn âm ba, gió rít đại ngàn hay sóng âm biển khơi mới tồn tại miên trường. Âm nhạc đời thường chỉ là cơn sóng xô giạt tiếp nối theo từng thời đại, có lúc chìm lặng lãng quên, có lúc mơ hồ thổn thức.
09/01/2019(Xem: 5365)
Thơ Báo Ơn Khóa Tu Báo Ơn năm nay Chúng con tu tập những ngày mùa đông Tại Chùa Tam Bảo ấm nồng Pháp thoại chia sẻ với lòng lạc an
09/01/2019(Xem: 10109)
Ngày 26/10/2018, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã rời Làng Mai Thái Lan về Đà Nẵng. Hai ngày sau, chiều 28/10, Thầy đã về chùa tổ Từ Hiếu trong sự chào đón của các học trò cũng như tăng ni, Phật tử ở Huế. Chuyện này thì ai cũng biết và các báo đài đã đưa tin rất nhiều.
08/01/2019(Xem: 7959)
Trong thời gian gần đây trên các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội đã bàn tán xôn xao đến cuộc Cách mạng Công nghiệp lần Thứ tư (CC4) và đưa ra nhiều ý kiến là Việt Nam cần phải hành động để đón đầu cuộc CC41. Trước những thách thức mới ấy, trong lãnh vực giáo dục và đào tạo, Việt Nam cần có những kiến thức và kỹ năng gì để có thể đáp ứng nhu cầu lao động trong thời kỳ CC4?
08/01/2019(Xem: 7685)
TRÁI TIM RỘNG MỞ THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Thông dịch: Thupten Jinpa Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tác giả, dịch giả và người hiệu đính.
08/01/2019(Xem: 4968)
Kính thưa chư Tôn đức, quí vị hảo tâm Từ thiện và bạn lành. Trong tâm niệm hành thiện: ''Sáng cho người thêm niềm vui- Chiều giúp người vơi bớt khổ'', hôm nay (05.Jan-2019) chúng tôi vừa thực hiện xong một số giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận khu vực Bodhgaya- lưu vực sông Niranjana (Ni Liên Thuyền) và Nalanda tiểu bang Bihar India. Xin chia sẻ cùng quí vị một vài hình ảnh tường trình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]