Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chăm sóc bệnh nhân: tối thượng thí...

16/05/202012:58(Xem: 8893)
Chăm sóc bệnh nhân: tối thượng thí...

san soc benh

Chăm sóc bệnh nhân: tối thượng thí

không bao giờ còn đọa vào ác đạo, được sanh thiên,

vãng sanh Tịnh Độ, rốt ráo sẽ thành Phật đạo



Từ thời Tiểu thừa (thời A Hàm) cho đến đại thừa thời Phương Đẳng, Niết Bàn, kinh văn  đều cho thấy từ tâm chăm sóc bệnh là hạnh rất lành, là tối thượng thí như trong những đoạn kinh sau:

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: 

Nếu có người săn sóc người bệnh là đã săn sóc TaNgười trông nom người bệnh tức là đã trông nom Ta.Sở dĩ như thế là vì nay Ta đích thân coi sóc người tật bệnh. 

Này các Tỳ-kheo, Ta không thấy một người nào trong chư Thiên, thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn mà bố thí tối thượng hơn sự bố thí này. Người hành bố thí này mới đúng là thí, sẽ thu hoạch quả báo lớn, được công đức lớn, tiếng tăm trùm khắp, được vị cam-lồ.Nghĩa là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác biết rằng bố thí tối thượng không gì hơn thí này. Người hành bố thí này mới đúng là thí, thu hoạch quả báo lớn, được công đức lớn. Nay Ta vì nhân duyên này mà nói như thế. Săn sóc người bệnh tức là đã săn sóc Ta không khác.Các Thầy sẽ luôn luôn được phước đức lớn. 
Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này. 
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”. 
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Nhập đạo, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.142) 

Trong khi đó ở phẩm 44 Chín Nơi Cư Trú của Chúng Sanh, Tăng nhất A-hàm tập III, một lần nữa ,Đức Thích Tôn lại xác quyết: “Người chăm sóc bệnh như chăm sóc Ta không khác, phước đức chăm sóc bệnh không khác phước đức cúng dường Ta và chư Phật”, như đoạn kinh văn sau:

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Các thầy sở dĩ xuất gia đồng một Thầy, hòa hợp như nước sữa, mà không chăm nom lẫn nhau. Từ nay về sau nên lần lượt chăm sóc thăm nom nhau. Nếu Tỳ-kheo bệnh không có đệ tử, trong chúng nên cử người lần lượt làm khán bệnh. Vì sao? Ngoài việc này ra, không thấy có việc gì hơn phước của người chăm sóc bệnh. Người chăm sóc bệnh như chăm sóc Ta không khác.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ: Nếu có cúng dường Ta/ Và chư Phật quá khứ/ Phước đức cúng thí Ta/ Không khác chăm nom bệnh.

Bấy giờ, Thế Tôn dạy lời ấy xong, bảo A-nan:

Từ nay về sau, các Tỳ-kheo mỗi mỗi chăm nom bệnh lẫn nhau. Nếu có Tỳ-kheo biết mà không làm thì các thầy nên căn cứ theo Luật. Đây là lời giáo giới của Ta.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm 44, Chín nơi cư trú của chúng sanh [trích], VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.219)

Trong kinh tạng Pali, Phật giáo Nam tông có tích truyện về một đạo sĩ cúng dường dược thảo cho Đức Phật Anomadati để chữa bệnh phong, quả đức có được không thể nghĩ bàn, luân lưu vô số kiếp trong hai cõi: trời – người, được an vui, không bao giờ bị bệnh, và chứng đắc quả A La Hán vào kiếp cuối cùng trong thời Đức Phật Thích Ca, sống thọ 160 tuổi, không hề bị bệnh, trở thành vị thánh đệ tử thọ mạng đệ nhất Bạc Câu La (Bakula) .

Vào thời Đức Phật Anomadati, có một vị đạo sĩ hành đạo trong núi Tuyết Sơn. Lúc bấy giờ Đức Phật đang mắc phải bệnh phong, đạo sĩ tìm kiếm trong dãy núi Tuyết sơn những rễ và củ cây làm thuốc cúng dường đến Đức Phật. Sau khi dùng thuốc bệnh phong Đức Phật được dứt khỏi. Từ phước lành này đạo sĩ cầu nguyện xin Đức Phật chứng minh cho rằng: "những kiếp về sau đạo sĩ không hề mắc bất kỳ một bệnh tật gì".

Do nhân lành của sự cúng dường thuốc đến Đức Phật, hàng trăm ngàn kiếp trái đất về sau, đạo sĩ luân lưu tái sanh trong hai cõi Trời - người.

Vào thời Đức Thích Ca ra đời là kiếp cuối cùng đạo sĩ tái sanh làm một chàng trai con nhà phú hộ giàu có tại thủ đô Baranasi (Balanại) có tên là Bakula, thụ hưởng mọi an lạc trong thế gian đến năm 80 tuổi. Sau đó ông đến xin Đức Phật xuất gia trở thành Tỳ Kheo, hành đạo không bao lâu chứng đắc được đạo quả A la hán. Suốt trọn cả kiếp ấy chưa có một lần nào bị bệnh gì cả (trở thành bậc đệ nhất về vô bệnh trong hàng đệ tử Phật), hưởng thọ được 160 tuổi và cuối cùng nhập Niết Bàn giải thoát, chấm dứt vòng sanh tử luân hồi.

 (Những Lời Dạy Vàng của Đức Phật, Phần 1: Các chuyện liên quan đến bố thí, Tỳ kheo Thiện Minh (Bhikkhu Varapanno: https://www.budsas.org/uni/u-ldv/ldv-01.htm)

Hơn thế nữa, Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện cho thấy từ tâm chăm sóc bệnh nhân sẽ được sinh thiên: từ lục dục thiên đến tịnh cư thiên, không bao giờ còn đọa vào ác đạo nữa, và rốt ráo sẽ thành Phật đạo:

Này Địa-Tạng Bồ Tát! Trong đời sau, như có vị Quốc Vương hay hàng Bà La Môn, gặp những người già yếu tật bịnh và kẻ phụ nữ sanh đẻ, nếu trong khoảng chừng một niệm sanh lòng từ lớn đem thuốc men, cơm nước, giường chiếu bố thí, làm cho những kẻ ấy được an vui.

Phước đức đó rất không thể nghĩ bàn đến được, trong một trăm kiếp thường làm Vua Trời Tịnh Cư, trong hai trăm kiếp thường làm Vua sáu từng trời cõi Dục, không bao giờ còn đọa vào ác đạo, cho đến trong trăm nghìn đời, lỗ tai không hề nghe đến tiếng khổ, rốt ráo sẽ thành Phật đạo

(Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, Phẩm 10: So sánh nhân duyên công đức của sự bố thí, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh).

Vì thế, hành giả Tịnh Độ có thể dùng hạnh rất lành (Pháp rất lành) này làm tư lương, thay vì hướng về Lục Dục Thiên, tịnh cư thiên, mà nguyện cầu vãng sanh về Miền Cực Lạc, nhất định sẽ được sanh vì tương ưng với đại nguyện của Phật A Di Đà khi còn trong nhân địa, làm Vua Chuyển Luân Thánh Vương Vô Tránh Niệm đối trước Bảo Tượng Như Lai đã phát, và đã thành tựu, như sau : Nguyện khi con thành chánh giác xong, ở vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp thế giới Phật khác có chúng sanh nào được nghe danh hiệu của con mà tu các pháp lành, muốn được sanh về thế giới của con, nguyện cho họ sau khi xả bỏ thân mạng, nhất định sanh về, chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch, hủy báng thánh nhơn, phá hoại chánh pháp.

(Kinh Bi Hoa, phẩm 4: Nguồn gốc các Bồ Tát được thọ ký, Hán Văn: Đàm Vô Sấm, Việt Văn: Thích Nữ Tâm Thường, trtr. 179 -180; Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Vol.3, No.157).

Tây Phương đua nỡ liên hoa

Chờ người hữu phước thiện duyên từ hòa

***

Nguyện đem công đức này

Hướng vế chúng sanh khắp pháp giới

Đồng sanh nước Cực Lạc

Tâm Tịnh cẩn tập
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 11556)
Tác phẩm thứ 29 nầy được bắt đầu viết vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 7 tháng 6 năm 2000, nhằm ngày mồng 6 tháng 5 năm Canh Thìn. Hôm nay trời không đẹp lắm, vì có nhiều cụm mây đen đang phủ kín đó đây phía bên ngoài.
09/04/2013(Xem: 9231)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (2005) Phật lịch 2549 tại Chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc, tôi và tăng chúng độ 30 vị, rất an lạc trong mỗi từng sát na sanh diệt của cuộc đời ở trong 90 ngày ấy.
09/04/2013(Xem: 12432)
Hoa là một loài thực vật tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên mà loài người thường hay trân quý, nhất là những loài hoa hồng, hoa cẩm chướng, hoa mẫu đơn, hoa mai, hoa cúc, hoa huệ...
09/04/2013(Xem: 18030)
Nếu nói 20 năm là một thế hệ, thì những bài viết trong quyển sách thứ 36 nầy đã hơn một thế hệ rồi. Đó là 25 năm của một chặng đường lịch sử mà chúng tôi đã đi qua.
09/04/2013(Xem: 10819)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật . Cùng tất cả trại sinh ngày Hạnh quý mến, Trong Lục Độ Tập Kinh, có dạy: “Thà mất nước không thà mất hạnh”. Thà mất nước, là thà mất biên cương, lãnh thổ, chứ không thà mất hạnh. Mất hạnh là mất văn hoá, mất nếp sống đạo đức, mất thuần phong mỹ tục, mất nhân tính, mất đi lý tưởng sống. Mất nước là mất biên cương, mất lãnh thổ, mất chủ quyền quốc gia, mà còn Hạnh, nghĩa là còn nền đạo đức của một dân tộc, còn nền văn hoá của một dân tộc, còn thuần phong mỹ tục của một dân tộc, và còn lý tưởng sống của một dân tộc, thì việc mất chủ quyền về chính trị, mất biên cương, mất lãnh thổ của dân tộc, sớm muộn gì cũng có thể phục hồi lại được, nhưng một dân tộc không mất biên cương, lãnh thổ mà mất Hạnh thì vĩnh viễn mất nước. Cũng vậy, người phật tử chúng ta, dù mất sinh mạng, nhưng không mất lý tưởng, thì chúng ta vẫn còn là một con người nguyên vẹn trong lý tưởng giác ngộ.
09/04/2013(Xem: 6562)
Hôm nay là ngày 16 tháng 11 năm 2003 tại vùng núi rừng của Tu Viện Đa Bảo ở Sydney thuộc nước Úc, tôi và tăng chúng ở đây đã gần một tháng nhập thất rồi và công việc của chúng tôi là dịch kinh, hành trì, tu tập, công phu, học tập, chấp tác v.v...
09/04/2013(Xem: 10587)
Nhiều người cho rằng Phật Giáo mang tư tưởng xuất thế nên không chủ trương có gia đình, không khuyến khích kết hôn, cũng tương đồng với việc cho rằng người theo đạo Phật đều phải xuất gia. Thật ra, đây là một quan niệm sai lầm.
09/04/2013(Xem: 8081)
Sống trên đời nầy, ai sinh ra rồi cũng phải có bổn phận, trách nhiệm và quyền lợi đối với chính bản thân mình và đối với cộng đồng xã hội và từ đó luật pháp được đặt ra để bảo vệ cho những quyền lợi và trách nhiệm đó. Nếu người nào vi phạm, tức có luật pháp là cán cân dùng để giải quyết mọi việc trong cuộc đời.
09/04/2013(Xem: 8108)
Trong cuộc sống vốn dĩ mang tính chất vô thường biến đổi nầy, chẳng có gì mang tính chất nhất định cả. Vì vậy chư Phật và chư Tổ Sư đã vì đời mà khuyên nhủ chúng ta rằng: "Không có gì là thực tướng. Tất cả chỉ là mộng huyễn mà thôi".
09/04/2013(Xem: 6548)
Bằng tất cả trí tuệ, bạn mới có thể nhìn thấy cuộc đời là một dòng sống tương tác giữa cái này và cái kia, tạo ra một trường thiên diễn vô tận của ráng nắng, của bọt nước, của ánh chớp, của sương, của giấc mơ, của tâm thức giả huyễn – và bằng tất cả tình yêu, bạn có thể lắng nghe nụ cười và tiếng khóc trùng điệp đuổi bắt thay nhau của vạn loại chúng sanh trong thế giới phù hư giả ảo ấy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]