Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khái lược Liên minh Phật giáo Italia

01/05/202019:04(Xem: 6813)
Khái lược Liên minh Phật giáo Italia

Khái lược Liên minh Phật giáo Italia

 Logo UBI 1

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) có gần 60 hội đoàn là thành viên của Liên đoàn. Liên hội này là một tổ chức tôn giáo, văn hóa và từ thiện xã hội. Liên hội không đại diện cho một tông phái nào, liên hội tập họp mọi hoạt động  để bảo tồn và tôn trọng mọi tông phái.

 

Phật giáo là tôn giáo thứ ba sau Thiên chúa giáo và Hồi giáo. Có hơn 100 nghìn Phật tử, chiếm 0, 2% dân số. Tuy nhiên mỗi ngày một gia tăng.

 

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) được thành lập tại Mialn vào năm 1985 bởi các trung tâm Phật giáo của tất cả các truyền thống Phật giáo hiện diện tại Italia, những thành viên Phật giáo gồm các truyền thống khác nhau cảm thấy cần phải thực thi ý nghĩa Tăng già, phải tôn trọng Lục hòa Kỉnh pháp, luôn đoàn kết, hài hòa trong hợp tác, như đã xảy ra ở các quốc gia châu Âu khác (Pháp, Đức,Áo, Hà Lan, Tây Ban Nha, v.v. . .).

 

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) bao gồm các tông phái Theravâda, Mahâyâna, Vajrayâna), thành lập năm 1985 và được quốc gia công nhận là một cơ quan tôn giáo có tư cách pháp nhân vào tháng 1 năm 1991, có trụ sở chính tại Rome. Liên đoàn là thành viên của Liên đoàn Phật giáo Âu Châu, có hơn 70 nghìn Phật tử, trong đó có 50 nghìn người Ý.

 

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) là một cơ quan tổ chức Phật giáo được công nhận bởi Nghị định của Tổng thống nước thứ 8 Cộng hòa Italia Francesco Cossiga ký ngày 3/1/1991, tập hợp các trung tâm, tổ chức, cơ sở tự viện Phật giáo thuộc các truyền thống Phật giáo, Nguyên thủy, Đại thừa và Kim Cương thừa. Tuân theo Điều 8 của Hiến pháp nước Cộng hòa Italia, để thiết lập quan hệ chính thức với Chính phủ Italia và bảo vệ các quyền của chư tăng và Phật giáo đồ, cả công dân Italia và Phật giáo từ các quốc gia châu Á và cư dân của Quốc gia Italia, UBI đã đạt được sự thỏa thuận phê chuẩn của Chính phủ Cộng hòa Italia vào ngày 11 tháng 12 năm 2012.

 

Các trung tâm Phậ giáo thuộc các truyền thống Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), Phật giáo Đại thừa (Mahayana), Tông phái Thiền Phật giáo Hàn Quốc, một phần của thiền phái Thiên Thai, Phật giáo Kim Cương thừa gồm các dòng Phật giáo Mật tông Gelugpa, Kagyupa, Nigmapa và Sakyapa hiện đang là một phần của UBI.

 

Tổ chức UBI được lãnh đạo bởi một ban Giám đốc, trong đó tất cả các truyền thống Phật giáo đều hiện diện tại Italia.

 

Tổ chức UBI cũng đã liên kết với Liên minh Phật giáo châu Âu (European Buddhist Union, EBU)

 

Lịch sử:

 

Theo lịch sử Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) bắt đầu khởi xướng từ năm 1984 do sáng kiến của Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga (1921-1998), một trong những nhân vật chính của dự thảo kế hoạch, dự án và sáng lập một số trung tâm Phật giáo, sau đó thắp sáng ánh đạo nhiệm mầu và hạnh đức Như Lai, từ bi trí tuệ, tự do bình đẳng lan tỏa khắp nơi trên lãnh thổ Italia (một quốc gia theo Công giáo khoảng 96%), bắt đầu gặp gỡ để thành lập một hiệp hội, thực tế hóa những trung tâm Phật giáo khác nhau tại Italia. Đạo luật đề xuất phát sinh từ các cuộc họp này đã được ký kết vào ngày 17 tháng 4 năm 1985 tại thành phố Milan, miền bắc Italia bởi 9 trung tâm Phật giáo.

 

Mục tiêu là thành lập một Hiệp hội các trung tâm Phật giáo thuộc nhiều truyền thống khác nhau, có thể là điểm liên lạc duy nhất giữa Nhà nước và các tổ chức Phật giáo, năm sau 9 trung tâm khác đã được t tiếp tục nhân rộng dần rất nhiều đến mức UBI ngay nay đã có gần 60 trung tâm Phật giáo.

 

Từ nguồn Liên minh Phật giáo Italia (UBI) đã đặt ra như là một Liên hiệp các trung tâm Phật giáo và nhằm mục đích hỗ trợ và đại diện cho toàn bộ phong trào Phật giáo trong tất cả các giao dịch lịch sử. Mục đích của nó chủ yếu là tập hợp và hỗ trợ các trung tâm Phật giáo Italia khác nhau, góp phần phổ biến chính pháp Phật đà, và hiện thực hóa giáo lý từ bi trí tuệ trong đời sống thường nhật, phát triển sự hợp tác giữa các trường phái Phật giáo khác nhau, và khuyến khích đối thoại trên tinh thần Lục hòa Kỉnh pháp với các cộng đồng tôn giáo khác với văn hóa và các học giả, về các chủ đề quan tâm chung, tăng cường quan hệ với Liên minh Phật giáo châu Âu (EBU), Liên hữu Phật giáo Thế giới (World Friendship of Buddhists, WFB) và các tổ chức Phật giáo nước ngoài và quốc tế khác.

 

Từ năm 1987, UBI là một phần của Liên minh Phật giáo châu Âu.

 

Trong những năm tiếp theo, UBI cam kết sẽ có được sự công nhận hợp pháp với tư cách là Cơ quan tôn giáo và ký thỏa thuận với Nhà nước Italia, theo yêu cầu của Điều 8 của Hiến pháp nước Cộng hòa Italia.

 

Vào ngày 3 tháng 1 năm 1991, với một Nghị định của Tổng thống nước thứ 8 Cộng hòa, Italia Francesco Cossiga, sau đó được điều chỉnh vào ngày 15 tháng 6 năm 1993, UBI đã được công nhận hợp pháp là một tổ chức Phật giáo. Mặc dù các cuộc đàm phán với Chính phủ về thỏa thuận có một tiến trình khó khăn bởi bàn bạc thảo luận có thể bắt đầu cụ thể vào năm 1998, nhưng sự kiện đã được ký kết lần đầu tiên với Chính phủ nước Cộng hòa Italia vào năm 2000 và sau đó vào năm 2007, cuối cùng thỏa thuận đã được Quốc hội nước Cộng hòa Italia phê duyệt vào năm 2012 (Luật số 245 ngày 31/12/2012), nhờ vào sự thu hút và phổ biến của các phương tiện truyền thông mà các chuyến công du viếng thăm và các cuộc họp công khai của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã diễn ra trong những năm này. Thỏa thuận điều này được phê duyệt cùng với Liên minh Ấn Độ giáo và Italia là một điều quan trọng mới lạ, bởi lần đầu tiên Nhà nước Italia đã ký một thỏa thuận với các truyền thống không đến từ chi nhánh Do Thái-Kitô giáo. Một luật khung về tự do tôn giáo đã được trình bày nhiều lần trong các cơ quan lập pháp cuối cùng nhưng rất ít may mắn, mặc dù nhu cầu của nó ngày càng rõ ràng với sự thay đổi của xã hội Italia về việc thúc đẩy toàn cầu hóa, và thay đổi các diễn biến về quốc tế.

 

Từ năm 2014, đã chỉ ra rằng Liên minh Phật giáo Italia là tổ chức nhận 8 phần nghìn tờ khai thuế của các cá nhân mà UBI sẽ có thể tài trợ cho các dự án để hỗ trợ việc sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng tôn giáo và phúc lợi xã hội, nhân đạo cho số tiền được chỉ định trực tiếp. Trong khi các khoản tiền còn lại, sẽ đến từng phần không được chỉ định, sẽ được dành riêng cho các dự án nhân đạo ở Italia và nước ngoài, cũng có thể được đề xuất bởi các hiệp hội, cơ quan và tổ chức phi Phật giáo. Phật giáo đại diện bởi UBI được đặt trưng bởi tinh thần cởi mở và đối thoại mạnh mẽ với các tôn giáo khác, với thế giới Công giáo mà nó đã có và vẫn còn mối quan hệ trực tiếp thường xuyên, đặc biệt là với Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn hiện diện tại các thành phố lớn của Italia.

 Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma và Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita

Hoạt động thường niên:

 

Liên minh Phật giáo Italia (UBI) tổ chức kỷ niệm Vesak thường niên luân phiên tại một thành phố khác nhau của Italia, với các nghi lễ và hội nghị tôn giáo. Lãnh đạo UBI cũng tham gia vào các cuộc họp và hội nghị với các giáo phái tôn giáo bạn, các trường đại học, các tổ chức và tổ chức của Italia và châu Âu.

 

UBI cũng hiện diện khắp nơi trong các trường học tại Italia, với các hoạt động thông tin về tôn giáo, triết học Phật giáo với các hội thảo và khoảnh khắc thực hành thiền định Phật giáo. Hơn nữa, nhờ 8 phần nghìn Quỹ và phối hợp với các tổ chức thuộc Xã hội dân sự như một khu vực thứ ba (Organizzazioni del Terzo Settore) trong xã hội, UBI hỗ trợ cho các dự án nhân đạo và phúc lợi xã hội tại Italia và nước ngoài, nhằm vào các nhóm dân số khốn khổ mong manh nhất và để khẳng định quyền con người và quyền công dân. Sự hỗ trợ cũng hướng về dự án thúc đẩy quan tâm và tôn trọng môi trường, thúc đây văn hóa bền vững của con người và xã hội, quyền hoạt động và hòa nhập cộng đồng xã hội đối với công dân, người Italia và người nước ngoài, và cho sự phát triển kinh tế xanh và bền vững theo “Kinh tế học Phật giáo, tiếng Italia: economia Buddhista, tiếng Anh: Buddhist economics” là một cách tiếp cận của Phật giáo đối với kinh tế học. Kinh tế học Phật giáo khảo sát đặc điểm tâm lý của trí óc con người, và những ưu tư, khát vọng, và cảm xúc vốn thúc đẩy hoạt động kinh tế. Cách hiểu về kinh tế học của Phật giáo nhắm đến việc làm rõ những gì là có hại và những gì là có ích trong những hoạt động của con người liên quan đến sản xuất và tiêu thụ, và nhất là cố gắng làm cho con người trưởng thành về mặt đạo đức. Bởi lý do này, họ hoạt động đối thoại với các đối tượng khác nhau trong lĩnh vực nghiên cứu, với các trường đại học, cơ quan, tổ chức, tổ chức của Italia và quốc tế để phát triển các hoạt động, dự án hài hòa với các giá trị của nó và có khả năng tạo ra một mô hình xã hội, văn hóa và con người mới.

 

Nhân dịp chào mừng kỷ niệm Vesak PL. 2564, vào ngày 17/3/2020. Liên minh Phật giáo Italia (UBI) đã phân bố 3 triệu euro để phân bổ trong việc ứng phó với tình trạng khẩn cấp bởi đại dịch Virus corona hiểm ác và để trả lại niềm tin mà nhân dân Italia đã thể hiện 8 phần nghìn: 1,5 triệu euro được chi cho việc Bảo vệ dân sự và 1,5 triệu euro đã đến với một Quỹ để hỗ trợ cho các hoạt động dịch bệnh cho những đối tượng bất hạnh khốn khổ mong manh nhất.

 

Tài liệu tham khảo được đọc nhiều nhất tại thư viện trụ sở UBI:

 

Thư mục về Phật giáo là vô cùng rộng lớn, đặc biệt một trong Anh ngữ. Đây chỉ là một vài tiêu đề huớng dẫn người lần đầu tiên đọc tiếp cận Phật giáo. Thư mục sách Phật giáo được cấu trúc để chỉ ra một số tiêu đề giới thiệu chung và giới thiệu về truyền thống cá nhân.

 

Cuối cùng, IBU khuyên những người quan tâm đến việc đào sâu một truyền thống cụ thể, nên trực tiếp đến trung tâm IBU của truyền thống cụ thể đó.

 

Giới thiệu về Phật giáo và lịch sử Phật giáo: Các văn bản cơ bản:

 

- Thich Nhat Hanh, Vita di Siddharta il Buddha, Ed. Ubaldini

 

- Walpola Rahula, L’insegnamento del Buddha, Ed. Paramita, Roma, 1994

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, La Via della Liberazione, Ed. Pratiche

 

- Schumann, Il Buddha storico, Ed. Salerno

 

- Tradizione Ch’an e Zen

 

* Sách Thiền (Ch’an) PG Trung Hoa

 

- Sheng-yen, Un Sapere sottile, Ed. Mondadori, 2001

Zen Rinzai

 

- Engaku Taino, L’Illuminazione nella vita quotidiana, Ed. Mediterranee

 

* Sách Thiền phái Tào Động (Zen Soto) PG Nhật Bản

 

- S. Suzuki, Mente Zen mente di principiante, Ed. Ubaldini

 

- Daido Strumia, Presenza Consapevole, Ed. Psiche

 

- Carlo Tetsugen Serra, Zen. Religione, filosofia, stile di vita, Ed. Fabbri

 

* Sách truyền thống Phật giáo Nam truyền (Tradizione Theravada)

 

- Achaan Chah, Il Sapore della Libertà, Ed. Ubaldini

 

- Achaan Sumedho, La Mente e la Via, Ed. Ubaldini

 

- Sayagyi U Ba Khin, Il Tempo della Meditazione Vipassana è arrivato, Ed. Ubaldini

 

* Sách truyền thống PG Kim Cương thừa (Tradizione Vajrayāna)

 

- Lama Yesce, Buddhismo in occidente, Ed. Chiara Luce

 

- Kyabje Kalu Rimpoche, La via del Buddha nella tradizione tibetana, Ed. Amrita, 2000

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, L’apertura dell’occhio della saggezza, Ed. Ubaldini

 

- G. Tucci, Le religioni del Tibet, Mondadori, 1997

 

* Sách trường phái Scuola Ghelupa (Scuola Ghelupa) thuộc PG Mật tông

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Il sentiero per la liberazione, Ed. Chiara Luce

 

- Thamthog Rimpoche, La Saggezza di Buddha, Ed. Mondadori

 

- Lama Yesce e Lama Zopa Rimpoce, Il potere della saggezza, Ed. Chiara Luce

 

- Löhr Sabine, Il Dalai Lama. La sua vita, il suo pensiero, Ed. Lindau

 

* Sách trường phái (Scuola Kaghiupa) thuộc PG Mật tông

 

- Wang Ch’Ug Dor Je (IX Karmapa), a cura di Alexander Berzin, La Mahamudra che elimina il buio dell’ignoranza, una guida al Grande Sigillo e al Guru Yoga, Ed. Ubaldini, 1985

 

- SGam.Po.Pa, a cura di Herbert V. Guenter, Il Prezioso Ornamento di Liberazione, Ed. Ubaldini, 1978

 

* Sách trường phái Scuola Nimapa – Dzo Chen thuộc PG Mật tông

 

- Namkhai Norbu, Dzog Chen – Lo stato di autoperfezione, Ed. Ubaldini

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Dzog Chen, Ed. Amrita

 

- Dialogo Interreligioso o con la Scienza

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Incontro con Gesù, Ed. Mondadori

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Ponti Sottili, Ed. Neri Pozza

      

- Lama Yesce, Il Suono del Silenzio, Ed. Chiara Luce

 

Tiểu sử

Trưởng lão Vincenzo Piga

(1921-1998)

(Người sáng lập Liên minh Phật giáo Italia)

 Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga 1

Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga sinh năm 1921 tại Thiene, một thành phố và hài thuộc tỉnh Vicenza, phía bắc nước Ý, nằm cách Venice khoảng 75 km về phía tây và cách Milan 200 km về phía đông. Thành phố có một khu vực công nghiệp năng động và sôi động, bao gồm chủ yếu là các công ty vừa và nhỏ.

 

Ông từng tham gia Đệ nhị Thế chiến, cuộc chiến khốc liệt nhất lịch sử nhân loại. Cuộc chiến giữa phe Đồng minh, dẫn đầu là Anh, Liên Xô, Mỹ và phe Trục phát xít gồm các thế lực chính Đức, Italy và Nhật Bản là cuộc chiến rộng và thảm khốc nhất trong lịch sử nhân loại. Ông được thực tập quân sự tại Đức và Ba Lan, bởi do từ chối chiến đấu với quân đội Đức cho nên ông bị đi tù. Trong các trại tù, ông luôn là một điểm tham khảo và tổ chức các Ủy ban trong các tù nhân, để có được điều kiện sống tốt hơn. Ông là đại diện công dân Italia tại Ủy ban Kinh tế và Xã hội của Liên minh châu Âu. Phải mất một thời gian dài để phê duyệt các quy tắc cho việc thay thế Amiăng trong các tòa nhà. Tại Brussels, Thủ đô của Vương quốc Bỉ, ông đã tiếp nhận ánh sáng từ bi trí tuệ đạo Phật tự do bình đẳng, và cống hiến hết đời mình cho Đạo pháp Dân tộc Italia.

 

Ông là người sáng lập Viện Istituto Lama Tzong Khapa (ILTK)  ở Pomaia, một làng ở Tuscany, tại nước Italy.

 

Năm 1982, ông sáng lập tạp chí “Pāramitā - Quaderni di Buddhaismo” và Quỹ Di Lặc (Fondazione Maitreya, Viện Văn hóa Phật giáo). Sau 18 năm, đã mang lại sức sống hùng dũng cho chính pháp Phật đà. Ông là người sáng lập the Italian Buddhist Union - Unione Buddhista Italiana: UBI), thuộc Liên đoàn Phật giáo Âu châu (the European Buddhist Union) tại  Milan năm 1985, và được Tổng Thống Ý chấp nhận năm 1991. Ông đã không biết mệt mõi trong Phật sự để công nhận UBI là một cơ quan tôn giáo được chính phủ công nhận, và để bắt đầu các cuộc đàm phán cho thỏa thuận với nhà nước Cộng hòa Italia theo điều 8 của Hiến pháp.

 Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga 2

Cách tiếp cận Phật pháp của Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga luôn nằm trong tầm nhìn mà ông gọi là “Nhất Phật thừa” (Ekayāna), một trong những tư tưởng nổi bật hàm chứa trong kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, theo Đức Phật dạy là tư tưởng duy nhất Phật thừa. Ngoài ra, Đức Phật còn nhấn mạnh rằng mặc dù có nhất Phật thừa, nhưng Ngài lại thuyết tam thừa; nghĩa là Đức Phật dùng phương tiện đưa ra Tam thừa để dẫn dắt đến cứu cánh Nhất Phật thừa, trong đó các tông phái Phật giáo khác nhau cùng đối thoại trong hài hòa, tìm thấy sự thống nhất cơ bản ngay cả khi không đồng nhất. Sự khác biệt giữa "thống nhất và đa dạng" và "thống nhất trong đa dạng" (Unity in Diversity) là lập trường mà ông đề xuất, và sau đó được sử dụng cho một Đại hội quan trọng của Liên minh Phật giáo châu Âu vào năm 1992, một tuyên ngôn về tiêu đề cho truyền thống Phật giáo châu Âu, có thể nói Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga là một trong những người tiên phong trong việc xiển dương giáo nghĩa “Nhất Phật thừa” tại Italia và châu Âu.

 

Sau đệ nhị thế chiến, ông đã tiếp nhận ánh sáng từ bi trí tuệ đạo Phật, từ đó ông vừa thực nghiệm vừa phát huy giá trị đạo nhiệm mầu và hạnh Đức Như Lai, trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp Phật đà tại một quốc gia 96% Thiên Chúa giáo. Phật sự viên thành, ông thanh thản thả hồn về cõi Phật, nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng vào ngày 14 tháng 11 năm 1998. Hưởng thọ 77 tuổi.

 

Một cuộc hội thảo tại Đại hội Liên minh Phật giáo châu Âu (EBU) tại Berlin, thủ đô Đức quốc vào ngày 27 tháng 9 năm 1992, với sự tham gia của hơn 2.000 đại biểu, Đại hội này là sự kiện EBU lớn nhất từ trước đến nay, phiên chuyên đề gồm các vị đại biểu: Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma và Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita.

 

Hình: Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma và Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita.

 

- Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một thiền sư Việt Nam, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình, người lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma, người đưa ra khái niệm và thực hiện "Phật giáo dấn thân" (engaged Buddhism).

 

- Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma (1929-2004), vị tăng sĩ Phật giáo Myanmar, nổi tiếng trong nghiên cứu và giảng dạy Tạng Vi Diệu pháp (Abhidhamma), người ủng hộ hòa bình, hòa giải dân tộc Myanmar.

 

- Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita (1925-2018, tác giả, nhà nghiên cứu Phật giáo nổi tiếng người Anh. Hòa thượng là người sáng lập Phật giáo Triratna và Cộng đồng (The Triratna Buddhist Order and community); thành lập Hội Phật giáo hữu phương Tây (The Friends of the Western Buddhist Order)

 

Tại phiên chuyên đề hội thảo, sự kiện độc đáo này, đại diện bốn vị lãnh đạo Phật giáo từ bốn truyền thống Phật giáo khác nhau, thảo luận về các chủ đề hấp dẫn như:

 

- “Mối quan hệ giữa chư tăng và Phật tử” (the relationship between the monks and the laity);

                    

- “Tầm quan trọng của Tạng Vi Diệu Pháp” (the importance of the Abhidhamma);

 

- “Hành động vô ngã trong xã hội Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa” (Buddhist social      

    action, anatta,Theravada and Mahayana); 

 

- “Hình Tượng Phối Ngẫu Trong Kim Cang Thừa, Phật giáo Mật tông” (and Tantric sexual imagery).

 

Lip:

 

“Thuyết trình triết lý Tính Không và Từ Bi” (Emptiness and Compassion)

 

https://vimeo.com/26795496

 

Thích Vân Phong

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2020(Xem: 6639)
Tản mạn : Làm sao Chuyển hoá khổ đau ? "Khổ đau chỉ đến khi ta khởi lên ý niệm đó mà thôi ! " Nếu ai đó đã từng học được điều này thì mời các bạn cùng tôi ngâm vài vần thơ trước khi vào đề tài rất hữu ích cho thời đại công nghệ này bạn nhé ! Nhất là giới trẻ và trung niên ngày nay dù có học Phật Pháp hay đang nghiên cứu vài sách về tâm lý . Làm thế nào khổ đau được chuyển hoá ? Không lạm bàn nạn dịch với thiên tai Thẩm sâu nội tâm ... rơi lệ , thở dài Chuyện uất ức, bất mãn, thành công thất bại ! Suy cho kỹ ... Tâm phan duyên, hoang dại ! Khổ đau chỉ đến ... ý niệm khởi đó thôi Tự mình tiêu cực, sao lại phải Tôi!!! Nào tản mạn ... nuôi dưỡng được tâm thái tích cực !!! ( thơ Huệ Hương )
17/11/2020(Xem: 8075)
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NI TRƯỞNG THƯỢNG NGUYÊN HẠ THANH Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thánh Tổ Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di Mẫu Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý Thiện nam, Tín nữ xa gần, Thật là vinh dự cho chúng con/ chúng tôi hôm nay được viết những dòng giới thiệu này cho tuyển tập “Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ” (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States) do Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Chùa Hương Sen, đứng ra biên soạn và xuất bản.
17/11/2020(Xem: 5790)
Nhân loại đã biết cách bay lên mặt trăng, tuy nhiên nhiều nơi trên địa cầu vẫn còn bị ràng buộc với những thói quen xưa cổ, trong đó một thành kiến khó rời bỏ là xem nhẹ phụ nữ. Hầu hết các tôn giáo cũng xem nhẹ phụ nữ. Riêng trong Phật Giáo, phụ nữ từ xưa vẫn có một vị trí đáng kính và bình đẳng trên đường học đạo, để tận cùng là thành tựu Niết Bàn. Khi vua Pasenadi nước Kosala không vui vì hoàng hậu Mallikà sinh một bé gái, Đức Phật trong Kinh SN 3.16 dạy vua rằng: "Này Nhân chủ, ở đời / Có một số thiếu nữ / Có thể tốt đẹp hơn / So sánh với con trai / Có trí tuệ, giới đức..." Hơn hai mươi thế kỷ sau, ý thức nữ quyền mới trở thành phong trào. Theo định nghĩa cô đọng và đơn giản, nữ quyền là niềm tin vào sự bình đẳng của nữ giới với nam giới về chính trị, kinh tế và văn hóa. Do vậy thường khi, nữ quyền gắn liền với dân quyền, vì bình quyền nam nữ dẫn tới ý thức bình quyền cho từng người dân, đặc biệt là nơi các dân tộc đang bị các nước thực dân thống trị, hay nơi các sắc tộc thiểu số
16/11/2020(Xem: 4805)
Vào ngày 8 tháng 11 vừa qua, Hội đồng Thống nhất Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo Bangldesh (Bangladesh Hindu Bouddha Christian Oikya Parishad; BHBCOP), đã tổ chức một chương trình tập hợp và biểu tình hàng loạt trên toàn quốc để phản đối các cuộc tấn công, đốt phá, tra tấn và giết hại người tôn giáo thiểu số tại Bangldesh. Là một phần của cuộc biểu tình, họ đã thành lập các chuỗi người và các cuộc biểu tình từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa tại các giao lộ chính của các trụ sở cơ quan chính quyền cấp quận, huyện, thành phố và tỉnh trên khắp đất nước, bao gồm cả giao lộ Shahbagh, Dhaka và giao lộ ngã tư New Market, Chittagong.
16/11/2020(Xem: 5478)
Vào giữa thế kỷ thứ mười bảy, Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh tầm quan trọng như thế nào để việc phân tích không trở thành một bài học thuộc lòng như vẹt mà phải là sống động. Khi chúng ta tìm kiếm cho một “cái tôi” tồn tại cụ thể như vậy mà không thể tìm kiếm được nó hoặc là cùng giống hay khác biệt với tâm thức và thân thể, điều thiết yếu là phải tìm kiếm cùng khắp; bằng khác đi chúng ta sẽ không cảm thấy tác động của việc không tìm thấy nó. Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã viết:
15/11/2020(Xem: 6064)
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde, một tổ hợp báo chí uy tín và lâu đời của nước Pháp. Một số câu được trích nguyên văn từ các bài kinh, trong trường hợp này nguồn gốc của các câu trích dẫn đó sẽ được ghi chú rõ ràng, trái lại các câu đã được rút gọn, chỉ giữ lại ý chính, sẽ không có chú thích về nguồn gốc. Ngoài ra trong bài 1 trước đây, người chuyển ngữ đã mạn phép ghi chú dài dòng với hy vọng có thể giúp một vài độc giả theo dõi dễ dàng hơn chăng các lời trích dẫn đôi khi khá cô đọng hoặc trừu tượng? Dầu sao thiết nghĩ sự suy tư và phán đoán là quyền hạn ưu tiên và thiêng liêng của người đọc, vì lý do đó kể từ bài 2 này, người chuyển ngữ sẽ mạn phép chỉ xin ghi chú thêm một vài suy nghĩ riêng của mình khi cảm thấy cần thiết. Độc giả có thể xem bản gốc tiếng Pháp của các câu trích dẫn này trên trang mạng của báo Le Monde: https://dicocitations.lemonde.fr/auteur/616/Bouddh
14/11/2020(Xem: 6468)
Kính mạn phép được thay đổi lại lời của một bài hát mà âm điệu đã thấm sâu vào huyết quản tôi từ bao giờ và hôm nay một lần nữa lại vang vang ...nửa như kích thích sự hưng phấn trong tôi nửa như khuyến khích tôi phải trình bày vì sao tôi thấy ra được điều này " Một niềm an vui hạnh phúc hỷ lạc thật sự có mặt và có thật trong mỗi con người chúng ta "
13/11/2020(Xem: 5166)
Từ khi có Lục tổ Huệ Năng đưa ra lý thuyết chúng sanh có sẳn Tánh Giác gọi là Phật Tánh trong người nhưng vì bị Ý thức che mờ đi nên cần ngồi thiền vén lớp ý thức này ra thì Phật tánh sẽ hiện ra thành Phật nên không cần kinh luật bất lập văn tự mà tu. Rất nhiều người bình dân phương nam đi theo một thời đông đảo. Câu hỏi được đặt ra là tánh giác này có trước hay sau ý thức? Thế nên mới đưa ra kế tiếp là giác ngộ rồi mới khởi tu tức là học kinh Phật. Vì Giác ngộ đến Giải thoát sinh tử là một chặng đường rất dài có khi rất nhiều kiếp cần trãi nghiệm. Vậy chúng ta nghiên cứu giác ngộ trước.
13/11/2020(Xem: 4816)
Nhân khi đọc bài Thành Tựu Niết bàn của Cư sỹ Nguyên giác Phan Tấn Hải, chúng tôi xin phép kết hợp với thuyết big bang của Stephen Hawking và tiến trình giác ngộ của Đức Phật, và sự sống và chết theo Phật giáo để luận bàn về Niết bàn, giải đáp thắc mắc đức Phật chết rồi đi về đâu? Đây chỉ là khởi niệm mới lạ, biết đâu tương lai sẽ có người chứng minh được.
13/11/2020(Xem: 4762)
Phương tây từ thế kỷ thứ 18 đã từng phát huy cái ngã cái tôi của con người như “tôi suy tư là tôi hiện hữu”. Từ đó đến nay người Phuơng tây phát triển cái tôi, đưa đến tôn trọng cái tính riêng biệt cũa cái tôi từ triết lý đến luật pháp. Nhưng đạo phật lại diệt ngã thì làm sao mà hoằng pháp cho người Phương tây tu theo phật được? Làm sao giải thích được ý nghĩa diệt ngã của đức Phật? Vậy ta có thể giải thích là không phải ngã? Khi người ngồi thiền định dưới cội bồ đề 49 ngày, người đạt giác ngộ và đập tay xuống đất mà nói ta đạt được chánh đẵng chánh giác do trời chứng , ta chứng và đất chứng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]