Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu Tâm và Tu Tướng

13/10/201908:05(Xem: 6277)
Tu Tâm và Tu Tướng

duc the ton-11

Tu Tâm và Tu Tướng


Trong cuộc đời này, nói rộng ra ở cõi Ta Bà này, từ Đông sang Tây, con người thường bị mê mờ hay mê luyến vào hình tướng bề ngoài và quên mất hay đồng hóa nó với thực tướng/bản  chất/nội tâm ở bên trong. Nguyên do chỉ vì chúng sinh vọng chấp vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà sanh tâm mình (Kinh Viên Giác). Thí dụ:

-Một cậu thanh niên thấy một cô người mẫu, hoa khôi, á hậu…đẹp như tiên nga giáng thế… tưởng đó là “người trong mộng” hay “người yêu lý tưởng”. Khi lấy về thì bao nhiêu tính xấu mới lộ ra, bao xung đột vì khác tính tình. Mối tình trong mộng nay biến thành  “oan gia trái chủ” khiến cười đau khóc hận.

-Một cô gái thấy một anh chàng hào hoa, đẹp trai, cử chỉ lịch sự…tưởng đó là “hoàng tử của lòng em”, lấy về mới tá hỏa ra đó là anh chàng Sở Khanh, tốt mã giẻ cùi…thôi thì vỡ mộng.

-Vào siêu thị thấy trái cây vỏ ngoài còn xanh tốt. Mua về bổ ra, cắt ra mới thấy bên trong đã hư thối. Đi các chợ rẻ tiền không tín nhiệm thường bị lường gạt là như thế.

-Nghe quảng cáo các món hàng, dịch vụ trên truyền hình, đài phát thanh…thấy mà mê. Háo hức mua về dùng thử mới thấy đó là đổ dỏm hay đồ giả.

            Tất cả những thứ này người ta đã dùng hình tướng tốt đẹp bề ngoài (sắc,thanh, hương, vị) để che dấu thực tướng tức cái không tốt, cái xấu ở bên trong.  Ngay trong đường lối tu hành ngày nay, một số rất đông cũng đã và đang mải mê theo con đường tu tướng, tức lấy hình thức, hình tướng để hành đạo… mà cho đó hoặc tưởng đó là con đường tu hành chân chính. Một số rất đông Phật tử không phân biệt được thế nào là Tâm (thực chất) và thế nào là Tướng (hình thức bề ngoài) vô tình đã bị các vị này mê mờ. Thậm chí tại California nơi tôi ở, một số chùa làm cơm chay miễn phí thật ngon để “câu” Phật tử. Một số bà khi gặp nhau thì bình phẩm chùa nào nấu cơm chay ngon rồi rủ nhau đi chùa đó. Nghe cả trăm thầy giảng và băng đĩa, thậm chí hành hương cả Tứ Động Tâm nơi Đức Phật sinh ra, thành đạo, hành đạo và nhập diệt… mà tu hành mà như thế thì đúng là cười ra nước mắt. Vậy thì đâu là tu tướng và đâu là tu tâm?

1) Tu tướng tức là dựa vào hình tướng bên ngoài:

-Tụng kinh cho hay, cho hấp dẫn…

-Thuyết giảng cho hay cho hấp dẫn…vẫn chỉ là hình tướng.

-Lễ nghi trang trọng, huyền bí vẫn chỉ là hình tướng.

-Phát hành cả trăm băng đĩa, viết cả chục cuốn sách…

-Thậm chí có cả triệu tín đồ đi theo vẫn chỉ là hình danh sắc tướng. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Bồ Tát trụ vào nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đều không phải là Bồ Tát.” Xin nhớ cho tín đồ đi theo chính là chúng sinh tướng.

-Được báo chí phỏng vấn bốc lên tận mây xanh, trao giải thưởng…vẫn chỉ là hình tướng. Giải thưởng, thậm chí như Giải Nobel, nhiều khi chỉ vì nhu cầu chính trị và trao lầm không biết chừng. Thụy Điển đã đe dọa thu lại Giải Thưởng Nobel Hòa Bình trao cho Bà San Suu Kyi vì bà này không ngăn cản quân đội đàn áp người thiểu số Hồi Giáo Rohingya tại Miến Điện. Rồi thế giới lại hối hận vì đã trao lầm Giải Thưởng Nobel Hòa Bình cho Ô. Obama khi ông mới nhậm chức tổng thống được vài tháng, sau đó tiến hành cuộc tiến công vào Libya giết chết Ô. Gaddafi khiến đất nước này tan nát cho tới bây giờ.

-Thậm chí cố gắng lấy cho được văn bằng Tiến Sĩ Phật Học…thì cũng chỉ là sắc tướng. Ngài Thần Tú văn chương uyên bác mà vẫn chưa ngộ. Trong khi Huệ Năng không biết một chữ mà tâm đã là tâm Phật. Vậy thì chữ nghĩa, kiến thức, bằng cấp không phải là nhân tố quyết định trong việc tu học. Ngộ và quyết tâm tu học mới là yếu tố quyết định.

-Trụ trì chùa thật to, thật đồ sộ…vẫn chỉ là hình tướng.

-Chức vụ thật cao trong giáo hội…vẫn chỉ là sắc tướng.

-Thậm chí cả “Thiền trà, thư pháp” cũng vẫn chỉ là hình tướng, nó chẳng biểu lộ sự chứng đắc của Thiền sư.

-Làm thơ rồi nhờ nhạc sĩ phổ nhạc, ca sĩ nổi tiếng hát…chính là “bệnh” phô trương. Kinh Phật , kệ tụng của chư Tổ …có cần nhờ ai phổ nhạc, ca sĩ hát, thu vào băng đĩa…sao đọc tụng cho tới bây giờ?

-Đi đâu cũng đòi phải có lọng che như “vua quan võng lọng ngày xưa”, tức lụy vào hình danh, sắc tướng…mà giảng về “thiền chánh niệm” về “tỉnh thức” là…phỉ báng Thiền.

-Thậm chí có 32 tướng tốt như Phật vẫn chỉ là nhan sắc, chưa phải là Phật. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề, “Chuyển Luân Thánh Vương có 32 tướng tốt cũng gọi là Phật sao?”

-Hoa hậu, hoa khôi, á hậu, ca sĩ, MC, người mẫu, tài tử nổi tiếng, ăn mặc đẹp như Tiên, nữ trang đeo đầy cổ, đầy tay…đứng khép nép, chắp tay cung kính trước tượng Phật, trông dịu hiền như Phật Bà Quan Âm…rồi hình chụp đăng tràn lan trên các báo…nhưng nhiều khi chỉ là “đóng kịch”, chưa chắc đã là Phật tử chân chính giữ được năm giới cấm. Chớ có lụy vào hình tướng bề ngoài này. Các cô nên thay một bộ áo lam bình dị, tới chùa quét dọn, lau chùi nhà vệ sinh, phục vụ cơm chay cho các cụ già, các khóa tu mùa hạ… như thế mới chính là tu hành theo Phật và tu tâm. Tu tướng chỉ mang tội vì lừa dối chính mình. Tu tâm mới vun trồng phước báu và phát triển trí tuệ. Tu tướng làm mê mờ trí tuệ.

2) Như vậy thế nào là tâm tướng và tu tâm?

-Nguy nhiên, tự tại, tâm không động…đó là hiện bày của tâm tướng.

-Từ bi hiện ra trên nét mặt, qua hành động cử chỉ, lời nói…đó là hiển lộ của tâm tướng.

-Trước cảnh khổ, oan trái… nhẫn nhục không kêu than giống như “Tiểu Kính Tâm”…đó chính là biểu lộ của tâm tướng.

-Coi quyền chức, danh vọng như phù vân…đó chính là hạnh của tu tâm.

-Thấy tiền bạc phải thấy sợ vì muôn ngàn tai họa xảy đến đều do tiền bạc. Đức Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ nói rằng ngài sợ hãi, lánh xa tiền bạc…đó chính là biểu hiện của tâm thanh tịnh hay tâm Phật.

-Tiền của đàn na thí chủ, Phật tử cúng dường…chỉ dùng vào Phật sự, chu cấp cho kẻ nghèo khó, phát học bổng cho học sinh hiếu học…không giữ làm của riêng…đó chính là tu hạnh thanh tịnh và bố thí Ba-la-mật.

-Thấy sắc đẹp của nam-nữ phải thấy đó là ngục tù và tai họa.

-Nghe lời khen không động tâm, nghe lời chê không tức giận…là tâm đã đi vào Định.

-Chùa nghèo, dù trong hang động, nơi thâm sơn cùng cốc…không Phật tử cúng dường, không các bà giàu có đến thăm viếng, không cơm chay chục món…mà vẫn thong dong tự tại…đó chính là Bồ Tát ẩn tu.

-Thuyết pháp cả trăm ngàn người nghe mà tâm vẫn không cao ngạo… coi đó như “giấc mộng ngày hôm qua”, không coi thường Phật tử, không nghĩ mình đã là Thánh, là Phật…đó là tâm địa của Bồ Tát. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Bồ Tát diệt độ được vô lượng vô  biên chúng sinh, nhưng không có chúng sinh nào được diệt độ. Như thế mới gọi là Bồ Tát.”

-Chùa rộng biến thành quán trọ cho học sinh nghèo tá túc trong mùa thi. Rồi cơm chay miễn phí…đó là công hạnh từ bi.

-Xây nhà tình nghĩa, xây cầu, giếng nước cho các thôn bản, gia đình nghèo khó…đó là huân tập hạnh “hằng thuận vì lợi ích chúng sinh”.

-Phát áo ấm cho học sinh nghèo trong mùa lạnh, thăm hỏi cô nhi quả phụ, người già trong bệnh viện…là thể hiện tinh thần cứu khổ.

-Cùng các bạn trẻ, sinh viên xuống đường thu dọn rác, làm sạch môi trường chính là “làm trang nghiêm cõi Phật”. Cõi Phật không có uế trược, không có ô nhiễm, không có xả rác bừa bãi.

-Mở mang trí tuệ cho mọi người, không mê mờ chúng sinh bằng những chuyện mê tín, huyễn hoặc như …xin xâm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt-xấu, tuổi nào hợp với tuổi nào, người chết phải chôn vào giờ nào. Phật tử và người tu hành chân chánh phải “Duy tuệ thị nghiệp”. Thiền Sư Bảo Giám đời Lý (1173) dạy rằng, “Muốn thành Phật cháng đẳng chánh giác phải nhờ trí tuệ”. Chúng sinh sống bằng tình cảm, mê tín và gom góp của cải. Các bậc đại sĩ, hiền thánh, Bồ Tát và Phật sống bằng trí tuệ (Bát Nhã). Tài sản của các ngài là lòng Từ Bi.

- Tổ chức các khóa tu mùa hạ, xuất gia gieo duyên cho giới trẻ …là gieo trồng căn lành, gầy dựng hạt giống Phật cho ngày mai, là góp phần xây dựng xã hội. Đó là hạnh cứu thế. Đức Phật ra đời cũng chỉ vì hạnh nguyện cứu độ chúng sinh.

Tóm lại, đạo Phật không phải là đạo của thời trang, kiểu cọ, hình thức bề ngoài. Đạo Phật không bao giờ dùng hình tướng hay nghi thức tế lễ huyền bí để lòe mị chúng sinh. Như Tổ Đạt Ma đã nói, cốt tủy của đạo Phật là, “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” hay “Tức tâm tức Phật” hay “Ngoài tâm không Phật”. Ngày xưa, khi Đức Phật còn tại thế, các đệ tử của Phật kể cả hàng tục gia (cư sĩ) chỉ tu theo Bát Chánh Đạo và Thiền Định mà đắc quả. Không hề có chuyện Đức Phật cúng vong, cúng mông sơn thí thực, cầu siêu, làm lễ chôn cất người chết. Cũng không hề có chuyện Đức Phật làm lễ thành hôn (nay gọi là hằng thuận) cho ai. Các đệ tử của Phật cũng không hề cầu nguyện để được giải thoát mà chỉ nương theo lời chỉ dạy và công hạnh của chư  Phật và các hàng Bồ Tát để tu tập. Khi du nhập vào Trung Hoa và Việt Nam, đạo Phật đã biến thể và đẻ ra rất nhiều nghi thức cầu nguyện và cúng tế không khác gì các pháp sư, thầy cúng, thầy bói.

Nhập thế và độ sinh không có nghĩa là chiều theo và dung dưỡng tinh thần mê tín, dị đoan của chúng sinh. Chúng ta phải coi lại và biết dừng lại và đánh giá xem đâu là chánh pháp và đâu là tà pháp. Cột trụ “Trí Tuệ”, “Tánh Không” và “Trí Tuệ Bát Nhã” của Phật Giáo sẽ gẫy đổ nếu chúng ta cứ sa đà vào các hình tướng cúng kiếng cầu nguyện đầy hình thức như thế này.

Đạo Phật nổi bật và hi hữu trên thế gian này  là vì nó không dựa và Thần Linh và những nghi thức cúng tế, cầu nguyện. Đạo Phật cũng nổi bật vì lời dạy của Đức Phật “Tự thắp đuốc lên mà đi”. Điều đó có nghĩa là, nghe lời giảng dạy của Phật, của chư Tổ.. rồi như con chim đủ lông đủ cánh, lìa tổ và tự lo cho cuộc đời mình…tức không cần thầy nào, chùa nào độ cho mình cả. Cầu nguyện chỉ là trợ lực, nhưng sẽ là vô ích nếu mình không tự tu, tự chứng.  Đã đến lúc chúng ta phải giảm bớt và thanh lọc bớt nhưng nghi thức, tế lễ, cúng kiếng trong tinh thần “độ sinh nhưng không xa lìa trí tuệ”. Đó là công việc vô cùng nặng nề và bức thiết của Giáo Hội. Xin nhớ cho,  mất Trí Tuệ thì Đạo Phật cũng giống hệt như các tôn giáo khác.

Riêng đối với người Phật tử hay người xuất gia tu hành chân chính… phải soi rọi vào tâm mình, nhìn thẳng vào tâm mình và phải thấy trong tâm mình có Phật. Khi đã nhìn thấy tâm mình là tâm Phật (kiến tánh, thấy tánh) thì quyết tâm tu hành để hiển lộ tâm ấy. Tâm Phật là tâm “bất nhị”, bản tế bình đẳng, thân tâm vắng lặng, viên mãn mười phương cõi, tịch mịch chiếu soi mà hiện ra các Tịnh Độ (Kinh Viên Giác). Tâm Phật không huyền bí mà có thể hiển lộ ra ngoài bằng những gì nói ở phần trên. Do đó người Phật tử chân chánh phải xa lìa lối tu tướng mà phải hướng về tu tâm. Tu theo chánh đạo là tu tâm. Tu theo tà đạo là tu tướng. Chính vì thế mà trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng, “Kẻ nào dùng âm thanh cầu ta, dùng sắc cầu ta, kẻ ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.” “Không thể thấy Như Lai” ở đây có nghĩa là dù tu cả ngàn năm vẫn chỉ là phàm phu và có khi mang tội không biết chừng.


Thiện Quả Đào Văn Bình

(California ngày 12/10/2019)

Ý kiến bạn đọc
12/10/201922:49
Khách
Excellent reminder to look within critically and see what is there beyond our clinging and delutions....
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 6366)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6396)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5553)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3890)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 3980)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4742)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4751)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5127)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
22/01/2021(Xem: 5274)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6549)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]