Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hy Vọng Cho Một Thế Giới Hòa Bình

06/07/201916:54(Xem: 6422)
Hy Vọng Cho Một Thế Giới Hòa Bình

HY VỌNG CHO MỘT THẾ GIỚI HÒA BÌNH

 

His-Holiness-Dalai-Lama-112

 

Nguyên bản: Hope for a Peaceful World

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

 

Tôi rất vui mừng gặp gở những người trẻ Nhật Bản vì tôi luôn luôn cảm thấy rằng những người của thế hệ tôi thuộc về thế kỷ hai mươi. Thế kỷ hai mươi đã qua. Với thế kỷ hai mươi, chúng ta đã chứng kiến một thế kỷ của máu đổ và bạo động. Theo một số nhà lịch sử nào đó, trong thế kỷ vừa rồi, hơn hai trăm triệu người đã bị giết qua bạo động. Chỉ trong phần sau của thế kỷ một khát vọng cho hòa bình và bất bạo động đã bắt đầu. Có một cảm giác của phẩn uất hay mệt mõi về bạo động.

 

Trong sự quan tâm đó, các bạn những người trẻ Nhật Bản có kinh nghiệm riêng của các bạn – trong Thế Chiến thứ hai các bạn đã khổ đau vô vàn. Hai trái bom nguyên tử được những người Nhật Bản ở Hiroshima và Nagasaki trải nghiệm. Cho nên các bạn là những  người phải hướng thế giới đến hòa bình và chống lại chiến tranh, một cách đặc biệt chống lại vũ khĩ nguyên tử. Quý vị - những người trẻ tuổi, hai mươi, ba mươi, và thấp hơn – là những người của thế kỷ hai mươi mốt. Thế kỷ hai mươi mốt đã qua mười năm rồi, nhưng còn chín mươi năm nữa chưa đến. Đây là thế kỷ như thế nào là rất tùy thuộc vào quý vị. Cho nên tôi thật sự vui mừng để gặp gở quý vị, và cho sự trao đổi quan điểm này.

 

Bây giờ, tôi muốn nói với quý vị, trong những phần khác nhau của thế giới, một số người cảm thấy rằng tính người một cách căn bản là tiêu cực tự nhiên. Quan điểm của họ là bạo động là một bộ phận tự nhiên của con người, và do vậy thế giới là như vậy. Tôi nghĩ điều đó là hoàn toàn sai và hiểu sai. Ở Ấn Độ, vẫn có những bạo động đâu đó, nhưng nếu quý vị nhìn vào tổng thể, một tỉ con người dường như đang sống một cách rất hòa bình. Thế kỷ hai mươi đã có nhiều đau khổ, nhưng những con người chúng ta đang trưởng thành hơn. Có một sự thay đổi lớn trong những nhận thức của con người về chiến tranh từ đầu và cuối của thế kỷ hai mươi; cũng thế trong vấn đề môi trường. Vào đầu thế kỷ, nói chung không có khái niệm hay tỉnh thức về môi trường. Vào lúc đó, người ta chỉ thích tiêu thụ mọi thứ, mà không có bất cứ sự tỉnh thức nào về sự giới hạn của những tài nguyên quan trọng. Ngay cả khái niệm về tâm linh vào đầu thế kỷ hai mươi thậm chí người ta chỉ nói về sự phát triển vật chất. Vào cuối thế kỷ hai mươi, người ta đã bắt đầu cảm thấy rằng có một sự giới hạn về giá trị vật chất – cuối cùng, sự hòa bình của tâm thức là rất quan yếu. Cho nên, người ta đang chú ý đến tầm quan trọng của hòa bình tâm hồn. Cho dù người có tín ngưỡng  hay không tín ngưỡng, càng ngày càng có  nhiều người hơn đang nói và nghĩ về giá trị tâm linh.

 

Cũng thế, vào đầu thế kỷ hai mươi, nhiều triều đại quân chủ đã cáo chung. Đây là những thay đổi lớn trong phạm vi một thế kỷ. Do vậy, phán xét từ toàn cảnh, con người đang trở thành trưởng thành hơn và thực tế hơn, thế nên mọi thứ đang trở nên tốt đẹp hơn và tốt đẹp hơn.

 

Ngày nay, các quyền con người và quyền tự quyết là phổ quát. Tôi sinh ra trong năm 1935, chỉ ngay trước Thế Chiến Thứ Hai. Nhật Bản đã sẳn sàng xâm lược Trung Hoa, khoảng 1935 có phải không? Tôi không thể nhớ chính xác ngày tháng.

 

Thế nào đi nữa, Thế Chiến Thứ Hai đã sắp xảy ra, và ở Âu Châu Đức Quốc Xã đã phát triển, tiếp theo là Mussolini ở Ý Đại Lợi – những gì quý vị gọi là đảng Phát xít. Sau Thế Chiến Thứ Hai, rồi chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, và v.v… - cho nên dường như là khoảng đầu cuộc đời tôi, tin tức đầy dẫy về chiến tranh. Và sự bạo động vô cùng này thất bại trong việc giải quyết những vấn nạn của loài người; trong thực tế, nó chỉ tạo thêm rắc rối. Chiến tranh, tôi nghĩ, sử dụng bạo động trong một cách tối đa, và thay vì giải quyết các vấn nạn, nó chỉ gieo thêm những hạt giống cho những rắc rối sâu xa hơn. Bây giờ, bất hạnh thay, mở đầu của thế kỷ hai mươi mốt cũng giống hệt như vậy. Sự tiết chế của Tổng Thống Bush là tuyệt vời – mục tiêu, vốn là để đem lại dân chủ cho Iraq, là thiện ý – nhưng phương pháp là bạo động, cho nên không ngờ đến những hậu quả xảy ra. Ngày nay, tôi cảm thấy con người đang trở nên trưởng thành hơn và thực tế hơn. Do những kin nghiệm của chính chúng ta, bây giờ chúng ta chú ý hơn đến những lãnh vực nào đó mà trước đây chúng ta quên lãng. Không ai biết những gì sẽ xảy ra cho con người sau vài nghìn năm, nhưng tôi nghĩ sau thế kỷ tới, và thế kỷ sau đó, và sau đó, con người và hành tinh chúng ta chắc chắn sẽ trở thành hòa bình hơn, từ bi hơn, và hạnh phúc hơn.

 

Có những khả năng ở đó. Nhưng rồi thì toàn bộ tùy thuộc vào những nổ lực của chính chúng ta và sự trong sáng của viễn tượng. Rồi thì, cũng vậy, tôi có thể nói rằng trong Thế Chiến Thứ Hai và buổi đầu của thế kỷ hai mươi, các quốc gia đang thi đua chế tạo bom nguyên tử. Trong phần sau của thế kỷ, những quốc gia quan trọng – chủ yếu là USA và Liên Bang Nga – bây giờ thật sự, đang nói một cách nghiêm chỉnh về việc giảm thiểu các đầu đạn hạt nhân và cuối cùng hoàn toàn từ bỏ vũ khí hạt nhân. Có những dấu hiệu rất, rất tích cực. Do bởi quá khứ như vậy, cho nên có một khả năng thật sự của một thế giới tốt đẹp hơn. Tôi chỉ là một con người trong sáu tỉ người. Tôi luôn luôn tin tưởng rằng mọi người có trách nhiệm để nghĩ về thế giới. Tôi là một người Tây Tạng, nhưng chúng tôi thuộc về sáu tỉ người – toàn bộ hành tinh.

 

Quý vị là người Nhật. Nhưng bây giờ thời gian để nói về Nhật Bản mà thôi đã qua. Bây giờ quý vị phải nghĩ và nói về toàn bộ thế giới, bởi vì tương lai của Nhật Bản tùy thuộc vào toàn bộ thế giới. Vào thời cổ xưa – thế kỷ mười tám hay mười chín, quý vị thấy – các quốc gia không nhiều thì ít độc lập với nhau. Họ là điều gì đó như tự cung tự cấp. Ngày nay, hoàn cảnh thế đó đã hoàn toàn thay đổi. Ngay cả Iraq là một nước hùng mạnh – nhưng tương lai của họ tùy thuộc vào toàn bộ thế giới. Và hãy nhìn vào tinh thần của Liên Hiệp Châu Âu.

 

Trong thế kỷ trước những quốc gia nhỏ bé đã đấu tranh cho chủ quyền của họ. Dân tộc của mỗi quốc gia đã sẵn sàng để hy sinh mạng sống của họ để bảo vệ chủ quyền của họ. Bây giờ,  họ đã nhận ra rằng quan tâm chung là quan trọng hơn quan tâm cá nhân. Quan tâm cá nhân được trộn lẫn rất nhiều với quan tâm chung. Do vậy, sau Thế Chiến Thứ Hai, như khái niệm mới, Liên Hiệp Châu Âu tạo ra đồng euro. Đồng mác của đức là một loại tiền tệ rất mạnh, nhưng họ sẵn sàng để hy sinh nó cho đồng tiền tệ chung. Đồng lira của Ý, như đồng Yen của Nhật, không có nhiều giá trị. Những việc này là một dấu hiệu rõ ràng rằng con người đang lo lắng hơn, và rằng họ bây giờ nhận ra rằng một quan tâm rộng rãi hơn là quan trọng hơn sự quan tâm vị kỷ. Điều này là rất quan trọng.

 

Bây giờ, Thượng đỉnh Copenhagen về sự ấm lên toàn cầu đã thất bại trong việc đem đến những kết quả cụ thể. Tại sao? Một số quốc gia quan trọng xem những quan tâm của quốc gia họ là quan trọng hơn những quan tâm của toàn cầu. Đó là tại sao nó thất bại. Một số quốc gia trẻ vẫn đang nghĩ về những quan tâm của quốc gia họ hơn là quan tâm toàn cầu. Nhưng trong thế giới rộng lớn, mọi việc đang thay đổi. Do vậy, tôi – như một con người trong sáu tỉ người , với một cảm nhận trách nhiệm toàn cầu – có hai chí nguyện. Chí nguyện thứ nhất của tôi là thúc đẩy những giá trị nội tại.

 

Giá trị nội tại có nghĩa là từ lúc sinh ra, một cách sinh học, chúng ta đã được trang bị để biểu lộ tình cảm đến người khác. Chúng ta có một cảm giác quan tâm đến sự cát tường của những người khác. Từ lúc ấu thơ, do bởi nhân tố sinh học này, chúng ta đã có được những thứ này. Điều đó là rất, rất quý giá, vì chúng ta là những tạo vật xã hội. Đời sống cá nhân lệ thuộc vào những thành viên khác của cộng đồng, do thế, một cách tình cảm, có điều gì đó đưa chúng ta lại với nhau, ban cho chúng ta với tình cảm con người và mối đồng cảm con người. Do vậy cho dù chúng ta có tin tưởng Thượng đế hay không, thì đây là những thứ được trang bị một cách sinh học. Theo những khám phá mới nhất của khoa học, nhiệt tình là rất quan trọng cho một thân thể khỏe mạnh. Đôi khi họ nói rằng tâm-khỏe-thân-khỏe. Điều này là đúng. Sân hận và sợ hãi liên tục thật sự ăn thủng vào hệ thống miễn nhiễm của chúng ta, theo một số nhà khoa học. Một tâm tĩnh lặng hơn và thấu cảm hơn tự động mang đến sự hòa bình nội tại. Một tâm tĩnh lặng là rất cần yếu cho một thân thể khỏe mạnh. Vì vậy, những thứ này tôi diễn tả như các giá trị nhân bản. Bất cứ nơi đâu tôi đến, tôi  luôn luôn cố gắng để làm rõ ràng điều này. Tiền bạc là quan trọng, nhưng sự giàu có nội tại này là quan trọng hơn sự giàu có bên ngoài. Đây là chí nguyện thứ nhất của tôi.

 

Chí nguyện thứ hai là điều này – tôi là một Phật tử. Tất cả những truyền thống tôn giáo quan trọng, mặc dù triết lý khác nhau, có cùng tiềm năng và cũng như cùng thông điệp – một thông điệp của từ ái, bi mẫn, tha thứ, bao dung và kỷ luật tự giác. Do vậy, tất cả những truyền thống tôn giáo, có cùng loại tiềm năng để giúp nhân loại và mang đến những giá trị nhân bản nội tại này. Những sự tiếp cận và triết lý khác nhau là cần thiết nhằm để làm lợi lạc, ảnh hưởng hay tác động những loại khác nhau đến những con người khác nhau, vì những con người khác nhau có nhiều khuynh hướng khác nhau. Chỉ một triết lý đơn giản là không đủ - chúng ta cần các triết lý và tiếp cận đa dạng. Như vậy là hữu dụng  hơn cho những con người đa dạng, cho đến khi mà mục tiêu căn bản là giống nhau – cố gắng để là một loại con người thấu cảm hơn, chân thật hơn. Chân thật và thấu cảm là những mục tiêu của tất cả mọi truyền thống tôn giáo quan trọng. Những phương pháp khác nhau là cần thiết. Trong chính Phật giáo, có nhiều triết lý khác nhau và những nhận thức khác nhau về thực tại. Chính tự Đức Phật đã giảng dạy những triết lý mâu thuẩn. Tại sao? Vì trong chính những đệ tử của Ngài, có những con người khác nhau và nhiều thiên hướng khác nhau. Chỉ một quan điểm triết lý là không đủ cho những con người đa dạng. Vì thế rõ ràng chúng ta cần những cung cách khác nhau để tiếp cận. Nhưng những khác biệt này chỉ là bề mặt. Cốt lõi là giống nhau – để mang đến sự an bình nội tại. Do vậy, có một nền tảng chung và một mục tiêu chung, vốn có thể được sử dụng và để cố gắng mang đến một mối quan hệ gần gũi hơn giữa những truyền thống tôn giáo khác nhau. Cho nên, đây là chí nguyện thứ hai của tôi – để thúc đẩy sự hòa hiệp giữa những truyền thống tôn giáo khác nhau.

 

Thế nên điều đó gần như một sự giới thiệu của chính tôi.

 

*

Ẩn Tâm Lộ, Friday, July 5, 2019

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4545)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7370)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4779)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4889)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5336)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10306)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9067)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6219)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8822)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5004)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]