Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bổn Tôn Du Già

27/05/201919:28(Xem: 5073)
Bổn Tôn Du Già
BỔN TÔN DU GIÀ
 
Nguyên bản: Deity Yoga
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / Thursday, March 7, 2019

 his-holiness-dalai-lama-222

-*-

 

Trong Phật giáo có hai loại thực tập căn bản Hiển Giáo và Mật Giáo. Cho đến giờ, chúng ta đang thảo luận về sự thực hành Hiền Giáo. Mục tiêu đặc biệt của Mật Giáo là để cung ứng một con đường nhanh hơn vì thế những hành giả đủ điều kiện có thể phục vụ người khác một cách nhanh chóng hơn. Trong Mật Giáo năng lực của quán tưởng được khai thác để hành thiền trong một sự thực hành gọi là bổn tôn du già. Trong sự thực hành này ta tưởng tượng:

 

1-    Thay thế tâm thức ta như nó xuất hiện một cách thông thường, đầy những cảm xúc rắc rối, với một tâm thức tuệ trí tinh khiết được động viên bởi từ bi;

2-    Thay thế thân thể ta như thông thường nó hiện hữu (được cấu thành bởi thịt, máu, và xương) với một thân thể được cấu thành từ bi mẫn được thúc đẩy bởi tuệ trí.

3-    Phát triển cảm nhận của một tự ngã tinh khiết vốn phụ thuộc trên tâm thứcvà thân thể hiện hữu một cách thuần khiết trong một môi trường lý tưởng, hoàn toàn dấn thân trong việc giúp đở người khác.

 

Sự thực hành đặc biệt này của Mật Tông yêu cầu quán tưởng tự thân ta với một thân thể, hành vi, năng lực và môi trường chung quanh của một Đức Phật, nó được gọi là “lấy sự quán tưởng làm con đường tâm linh.”

 

Chúng ta hãy xem xét một dự tưởng về sự thực hành này. Ta xem tự thân ta có những phẩm chất của một Đức Phật vốn hiện tại ta chưa có. Thế thì, đây có phải một loại tâm thức thiền quán đúng đắn không? Vâng. Tâm thức ta được liên hệ trong một sự thấu hiểu thực tại từ việc ta đang hiện hữu như một bổn tôn. Do thế, tâm thức ta, từ quan điểm này, là đúng đắn. Cũng thế, ta đang cố tình tưởng tượng tự ta như có một thân thể siêu phàm ngay cả hiện tại ta chưa sở hữu. Đây là sự hành thiền quán tưởng, chúng ta không tự tin từ thâm tâm rằng ta thật sự có tâm thức, thân thể, và cá tính thuần khiết. Đúng hơn, căn cứ trên việc quán tưởng trọn vẹn  về thân thể và tâm thức lý tưởng, chúng ta đang trau dồi cảm nhận hiện hữu của một bổn tôn hổ trợ người khác một cách từ bi.

 

Để là một giáo thọ Mật Giáo đặc biệt – như đã nói, loại giáo thọ mà với người ấy Đức Phật đặc biệt trình bày sự thực hành Mật Tông – một hành giả phải có năng lực sắc bén và đã đạt đến tuệ trí vững vàng thực chứng tánh không, hay đã sẳn sàng kích hoạt nhanh chóng tuệ trí này. Những đòi hỏi cho chỉ việc thực hành Mật Tông là ít nghiêm nhặt hơn; tuy thế, việc dấn thân trong Mật Giáo ở bất cứ trình độ nào cũng đòi hỏi một ý chí mạnh mẽ để đạt được Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh, và một cảm nhận rằng việc này cần được hoàn thành một cách thật nhanh chóng.

 

Vào lúc bắt đầu của việc thực hành Mật Tông, cách căn bản để phát triển sự tĩnh lặng (tam muội) là hành thiền trên thân thể của chính ta giống như nó đã là một bổn tôn. Khi chúng ta hành thiền trên một thân thể siêu phàm, trước tiên ta hành thiền về tánh không, hãy gặt hái sự tỉnh thức tối đa  như có thể về tánh không của sự tồn tại cố hữu. Khi chúng ta đã thích nghi với thể trạng này, thì ta sử dụng chính tự tâm thức ấy như căn bản mà từ đó bổn tôn xuất hiện. Tâm thức, thực chứng tánh không, xuất hiện như bổn tôn và môi trường chung quanh của vị ấy. Trước tiên ta thiền quán về tánh không, từ đó bổn tôn xuất hiện; sau đó tập trung vào bổn tôn.

 

Trong cách này, bồn tôn du già kết hợp tuệ trí và động cơ từ bi, một tâm thức đơn độc thực chứng tánh không và xuất hiện một cách từ bi trong hình thức của một bổn tôn vị tha. Trong hệ thống Hiển Giáo, mặc dù có một sự phối hợp của tuệ trí và động cơ từ bi, nhưng sự thực hành tuệ trí chỉ tác động bằng năng lực của sự thực hành động cơ, và sự thực hành động cơ chỉ tác động bằng năng lực của sự thực hành tuệ trí; chúng không được bao hàm trong một ý thức. Một tính năng phân biệt của Mật Giáo là chúng là như vậy. Sự bao hàm của động cơ và tuệ trí trong một ý thức là những gì làm cho tiến trình của Mật Tông thật nhanh chóng.

 

Khi tôi còn là một thiếu niên, Mật Tông chỉ là một vấn đề của sự tin tưởng mù quáng. Vào tuổi hai mươi bốn, tôi mất quê hương và rồi thì sau đó đến Ấn Độ thật sự bắt đầu đọc những giải thích của Tông Khách Ba về tánh không. Rồi thì, sau khi chuyển đến Dharamsala, tôi đã dành nhiều nổ lực trong sự học tập và thực hành những giai tầng của con đường tu tập, tánh không, và Mật Tông. Thế nên, chỉ vào cuối những năm hai mươi tuổi của tôi sau khi đạt được một kinh nghiệm nào đó về tánh không thì bổn tôn du già mới có lý.

 

Một lần nọ ở chùa chính ở Dharamsala, tôi đang tiến hành nghi thức quán tưởng tôi như một bổn tôn của Tantra Yoga Tối Thượng, được gọi là Phật Bí Mật Tập Hội. Tâm tư tôi liên tục duy trì trong việc trì tụng nghi thức, và khi cụm chữ “tự chính tôi” đến, thì tôi hoàn toàn quên về tự thân thông thường của tôi trong mối quan hệ với sự phối hợp của tâm thức và thân thể. Thay vì thế, tôi có một cảm nhận rất rõ ràng về “tôi” trong mối quan hệ với sự kết hợp mới mẻ thuần khiết của tâm và thân của Phật Bí Mật Tập Hội (Phật Guhyasamaja), mà tôi đang quán tưởng. Vì đây là loại tự xác định vốn là trọng tâm của Du già Mật tông, cho nên kinh nghiệm xác nhận với tôi rằng với đầy đủ thời gian thì tôi chắc chắn sẽ đạt được những thể trạng sâu xa ngoại hạng đã được đề cập trong các kinh điển.

 

QUÁN ĐẢNH

 

Để thực hành Mật Thừa, thì đặc biệt quan trọng là được tham gia vào lễ truyền pháp gia hộ từ những bậc đại nhân trước đó. Những sự gia hộ không có trong sự thực hành của Kinh Thừa Hiển Giáo, nhưng chúng là thiết yếu trong Mật Tông. Phương tiện trước tiên của việc đi vào những sự gia hộ này là qua cánh cửa quán đảnh. Có bốn lớp Mật Tông – Hoạt Động, Thực Hiện, Du Già và Vô Thượng Du Già (Tantra Yoga Tối Thượng) – mỗi lớp với những sự quán đảnh của nó để làm chín muồi tâm thức cho sự thực tập, và mỗi lớp Mật Tông với những sự hành thiền của chính nó.

 

Chúng ta tiếp nhận sự quán đảnh ở đâu? Trong một mạn đà la, bao hàm những môi trường lý tưởng và cư dân siêu phàm tất cả vốn là những sự biểu hiện của từ bi và tuệ trí. Có những mạn đà la với mức độ phức tạp khác nhau cho tất cả bốn lớp Mật Tông. Một số được vẽ. Những thứ khác được tạo thành từ cát màu, và tuy thế những thứ khác nữa được tạo thành từ một loại mạn đà la thiền định đặc biệt.

 

Để tiếp nhận sự quán đảnh và phát nguyện trong một mạn đà la của Mật Tông Du Già hay Vô Thượng Du Già, vị lạt ma tiến hành buổi lễ phải có những phẩm chất hoàn hảo. Tất cả bốn bộ Mật Tông nhấn mạnh đặc biệt vào đức tính của vị lạt ma, trong việc giữ gìn những sự diễn tả chi tiết của Đức Phật cho những giai tầng khác nhau của con đường tu tập. Cũng hãy nhớ lời Đức Phật dạy bảo rằng không chỉ nương tựa vào người ấy mà cũng phải nương tựa vào giáo lý (y pháp bất y nhân). Ta không nên bị choáng ngợp bởi danh tiếng của một vị thầy. Điều quan trọng nhất là, vị thầy phải biết giáo lý, những thực hành, trọn vẹn.

 

CAM KẾT VÀ THỆ NGUYỆN

 

Trong hai bộ Mật Tông thấp – Hành Động và Thực Hiện – không có sự chỉ bảo rõ ràng rằng những thệ nguyện Mật Tông phải được tiếp nhận cho lễ quán đảnh; tuy thế, có nhiều sự cam kết phải được giữ. Trong hai bộ Mật Tông cao – Du Già và Vô Thượng Du Già – sau khi nhận lễ quán đảnh với tất cả những khía cạnh của nó, ta phải tiếp nhận những thệ nguyện Mật Tông ngoài những cam kết. Mật Tông Du Già và Vô Thượng Du Già có mười bốn (14) giới nguyện căn bản cũng như danh sách của những vi phạm để bảo vệ chống lại, nhưng như chúng khác nhau trong những con đường tu tập tương ứng, thậm chí những giới nguyện căn bản cũng hơi khác nhau. Vì sự thực hành Mật Tông quan tâm chính yếu với việc vượt thắng hiện tướng của chính ta và môi trường của ta khi bình thường (nhằm để khắc phục nhận thức những thứ này như bình thường), cho nên ta quán tưởng tự ta có một thân thể, các hành vi từ bi, tiềm lực, và nơi ở của một Đức Phật. Do vậy, hầu hết các sự cam kết quan tâm đến việc thay thế lý tưởng cho những hiện tướng thông thường, và kiềm chế sự đánh giá của chính ta về ta, những bạn đồng hành của ta, môi trường của ta, và những hành vi của ta như thông thường.

 

Loại thứ nhất được mệnh danh là đạo đức giải thoát cá nhân, sau đó là đạo đức Bồ tát, và cuối cùng là đạo đức Mật thừa. Những người thọ giới Bồ tát và Mật tông giữ lối giải thích của riêng họ về giới giải thoát cá nhân. Mật pháp Thời Luân, vốn rộ nở vào thế kỷ 11 ở Ấn Độ và đã trở thành Kim Cương tông chính yếu của những trường phái Tân dịch ở Tây Tạng, tuyên bố rằng nếu có ba vị thầy Mật tông, một với giới giải thoát cá nhân, một với giới sa di, và người thứ ba với đại giới cụ túc, thì người thọ giới cụ túc nên được xem là cao hơn những người kia. Điều này cho thấy rằng sự kính mến cao mà ngay cả trong hệ thống Mật thừa cũng đặt vào đạo đức xuất gia. Mật điển Bí Mật Tập Hội nói rằng bề ngoài ta nên giữ những khuôn phép của sự thực hành giải thoát cá nhân, và bên trong hãy duy trì một mối thân thuộc cho sự thực hành Mật Tông. Trong những cách này sự thực hành của Hiển Giáo và Mật Giáo hoạt động chung với nhau.

 

 PHƯƠNG TIỆN CỦA MẬT TÔNG TRONG CON ĐƯỜNG TU TẬP

 

Chúng ta hãy xem vai của tình dục trong con đường tu tập của Mật tong bằng cách nhìn vào cấm đoán tà dâm trong đạo đức giải thoát cá nhân, vốn hoàn toàn căn cứ trên nguyên tắc của việc tránh làm tổn hại. Tà dâm được chi tiết hóa trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận của Thế Thân. Đối với một người nam không được có quan hệ với vợ người khác, hay với người vị thành niên. Đối với người nữ cũng vậy; cũng không được quan hệ với chồng người khác, hay người vị thành niên. Một số người cho rằng, thực tức cười, vì tác phẩm của Thế Thân giải thích mười điều bất thiện từ quan điểm của nam giới, cho nên nếu người nữ làm mười điều bất thiện thì không sao – và vì vậy không có việc cấm đoán đối với người nữ.

 

Đối với những Phật tử, việc giao hợp có thể được sử dụng trong con đường tâm linh vì nó tạo ra một sự tập trung mạnh mẽ của tâm thức nếu hành giả đã có lòng từ bi và trí tuệ vững vàng. Nếu mục tiêu của nó là để biểu hiện và kéo dài những trình độ sâu sắc hơn của tâm (được diễn tả trước đây với tương ứng của tiến trình lâm chung), nhằm để đặt năng lực của họ để sử dụng trong việc làm mạnh mẽ sự thực chứng tánh không. Trái lại, chỉ giao hợp đơn thuần thì không có tác dụng vì với con đường tâm linh. Khi một hành giả đã đạt được trình độ cao cấp của thực hành trong động cơ và trí tuệ, thế thì ngay cả khi giao hợp, không làm xao lãng với việc duy trì thái độ thuần khiết của người ấy. Các hành giả du già đã đạt được trình độ cao trên con đường tu tập và đầy đủ phẩm chất thì có thể dấn thân trong hành vi như vậy, và một tu sĩ với năng lực này có thể duy trì toàn bộ giới nguyện.

 

Một hành giả du già Tây Tạng tinh tường, khi bị người khác bình phẩm nói rằng ông đã ăn thịt và uống bia khi dâng cúng đến bổn tôn mạn đà la. Những hành giả Mật tong như vậy quán tưởng họ như những bổn tôn trong một mạn đà la hoàn chỉnh, trong sự quán tưởng rằng bổn tôn tối thượng là đại lạc tối thượng – sự phối hợp của đại lạc và tánh không. Người ấy cũng nói rằng sự thực hành tình dục với một phối ngẫu cam kết vì lợi ích của việc phát triển một tri thức chân thật. Và rằng việc làm ấy là mục tiêu. Một hành giả như vậy có thể làm cho việc sử dụng tâm linh không chỉ thực phẩm và thức uống thơm ngon, mà ngay cả phân và nước tiểu. Một thiền giả du già chuyển hóa những thứ này thành thực phẩm của thần thánh thật sự. Tuy thế, đối với những người như chúng ta, thì việc này ngoài tầm tay. Cho đến khi nào chúng ta không thể chuyển hóa phân và nước tiểu, thì những thứ khác không nên làm!

 

Đức Phật đã đưa ra một chuỗi những giai tầng của con đường một cách chính xác vì lý do này. Giai đoạn sơ bộ là tu tập trong những giới nguyện của giải thoát cá nhân. Nếu chúng ta sống như một tu sĩ nam hay nữ, thì đức hạnh của ta phải căn bản hơn – hơi nguy hiểm nếu quá đáng. Ngay cả nếu ta không hoàn toàn thi hành những giới nguyện như vậy, thì cũng không có gì tai hại nhiều. Rồi thì cứ thực hành, thực hành, thực hành. Một khi chúng ta đã phát triển được sức mạnh nội tại, ta có thể kiểm soát bốn yếu tố nội tại – đất, nước, lửa, gió ( hay năm đại nếu thêm của không đại). Một khi ta có thể hoàn toàn kiểm soát bốn yếu tố nội tại, thế thì ta có thể kiểm soát năm yếu tố bên ngoài. Sau đó ta có thể sử dụng bất cứ thứ gì.

 

Việc giao hợp giúp gì trong con đường tu tập? Có nhiều trình độ khác nhau của tâm thức. Khả năng của những trình độ thô rất hạn chế, nhưng những trình độ sâu xa vi tế là mạnh mẽ hơn nhiều. Chúng ta cần thâm nhập những trình độ vi tế hơn của tâm thức. Nhưng nhằm để làm được như vậy, chúng ta cần làm yếu đi và tạm thời dừng lại tâm thức thô. Để làm điều này thì cần thiết phải mang đến một sự thay đổi sâu sắc trong dòng chảy của những năng lượng nội tại. Mặc dù những hình thái của những trình độ tâm thức sâu sắc hơn xảy ra trong khi nhảy mũi và ngáp, nhưng rõ ràng là chúng không thể kéo dài. Cũng thế, kinh nghiệm trước đây với việc biểu hiện những trình độ sâu sắc hơn đòi hỏi việc sử dụng việc xảy ra của chúng trong giấc ngủ sâu. Đây là nơi mà chúng xảy ra. Qua những kỷ năng đặc biệt của việc thiền định trong giấc ngủ, các hành giả thành thạo  có thể kéo dài những thể trạng vi tế và đầy năng lực và đặt chúng vào việc sử dụng để thực chứng tánh không. Tuy nhiên, nếu là những người thong thường thì không có tác dụng gì.

 

Một Đức Phật không cần sự giao hợp. Các bổn tôn trong một mạn đà la thì thường trong sự kết hợp với một phối ngẫu, nhưng điều này không phải nói rằng chư Phật phải cần đến sự giao hợp cho đại lạc của các ngài. Chư Phật đã có đầy đủ đại lạc trong chính các ngài. Chư bổn tôn trong sự kết hợp tự nhiên xuất hiện trong mạn đà la vì lợi ích của chúng sanh với những năng lực sắc bén có thể sử dụng phối ngẫu với đại lạc của việc kết hợp trong việc thực hành con đường nhanh chóng của Mật tong. Trong cùng cách rất giống như vậy, Đức Phật Mật tông Kim Cương Trì xuất  hiện trong những khía cạnh hòa bình và những khía cạnh hung tợn, nhưng đó không có nghĩa là Đức Phật Kim Cương Trì có  hai khía cạnh này với tính chất của ngài là luôn luôn hoàn toàn từ bi. Đúng hơn, sự xuất hiện tự nhiên trong những cung cách khác nhau là vì lợi ích của những hành giả tu tập. Đức Phật Kim Cương Trì xuất hiện đúng trong một cung cách mà hành giả nên thiền quán khi sử dụng những cảm xúc phiền não, chẳng hạn như tham dục hay thù hận trong tiến trình của con đường tu tập. Để nắm lấy những cảm xúc mạnh mẽ như vậy trong con đường tâm linh thì hành giả không thể tưởng tượng rằng họ có một thân thể hòa bình của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Bổn tôn du già đòi hỏi. Vì trong trường hợp của thù hận, thí dụ thế, thì cần phải thiền quán trên thân thể của chính mình trong một hình thức hung dữ. Đức Phật Kim Cương Trì xuất hiện một cách tự động trong một hình thức hung tợn tương ứng để chỉ cho hành giả thiền quán như thế nào. Cũng giống như thế với du già tình dục; các hành giả, những người có thể sử dụng đại lạc phát sinh trong tình cảm liên hệ trong khi nhìn chằm chằm, mĩm cười, nắm tay nhau, hay phối hợp phải biểu hiện với bổn tôn du già tương ứng, họ không thể tưởng tượng chính họ như Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, một tu sĩ. Mục tiêu của những hiện tướng khác nhau của Đức Phật Kim Cương Trì không phải làm cho hành giả sợ hãi cũng không phải kích thích tham muốn trong họ, nhưng để chỉ họ thiền quán như thế nào trong những hình thể ấy nhằm để cuối cùng họ chiến thắng những cảm xúc phiền não.

 

Một Đức Phật có thể xuất hiện một cách tự nhiên mà không cần sự cố gắng trong bất cứ cách nào là thích hợp. hình thể của những hiện tướng này được hình thành qua nhu cầu của những người khác, không phải vì lợi ích của Đức Phật ấy. Từ quan điểm của Phật đà, thì Đức Phật ấy có chân thân tự đầy đủ (Pháp thân), mà các ngài tồn tại mãi mãi.

 

Hãy nhớ rằng đạo đức Mật tông được xây dựng trên đạo đức của giải thoát cá nhân và trên đạo đức của từ bi. Mục tiêu của Mật tông là để đạt được Quả Phật trên một con đường nhanh hơn nhằm để phục vụ những người khác mau lẹ hơn.

 

TOÁT YẾU THỰC  HÀNH

 

Vì sự thực hành Mật tông chính yếu là chuyển hóa vấn đề chúng ta thấy tự thân ta, người khác, môi trường, và các hành vi của ta như thế nào, cho nên có thể hữu ích để quán tưởng tự thân như có một động cơ từ bi, một thân thể và đức hạnh tinh khiết, làm lợi ích cho những người khác.

 

-*-

Ẩn Tâm Lộ, Thursday, March 21, 2019

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2022(Xem: 2631)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu. Hôm nay tôi sẽ viết về các loại Tình: tình bạn, tình người, tình yêu, thình thương, tình cảm v.v… Nếu viết bằng chữ Hán về chữ Tình nầy thì bên trái viết bộ tâm đứng, có nghĩa là những tình nầy đều khởi đi từ tâm của mỗi con người; bên phải viết chữ thanh là màu xanh hay cũng còn có ý là rõ ràng, trong sáng v.v…, hai chữ nầy ghép lại gọi là chữ Tình. Sau nầy tiếng Việt chúng ta dùng chữ tình yêu, tình cảm, tình thương, tình ý v.v…cũng đều sử dụng chữ tình nầy để ghép chung vào chữ Nôm của chúng ta, trở thành tiếng Việt thuần túy.
04/03/2022(Xem: 2333)
Xin khép lại những phiền muộn của năm cũ với nhiều nỗi đau thương mất mát và ly biệt, niềm thương cảm cho người thân, thầy bạn mãi mãi rời xa chúng ta. Trong bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào, ta vẫn nghĩ, dù sao đó là những chuyện đã qua, năm mới với nhiều hy vọng mới, tư duy mới và một cuộc hành trình mới đang chờ chúng ta phía trước. Xin bạn hãy khép lại những lo âu phiền muộn, lau khô những giọt nước mắt cho những mối tình hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ, rồi cũng sẽ có người phù hợp với bạn, sẻ chia vui buồn trong cuộc sống của bạn. Sự chân thành sẽ tồn tại quanh bạn, những giọt nước mắt sẽ giúp bạn hiểu được cuộc đời này, rồi niềm vui sẽ đến, những trở ngại giúp bạn biết nâng niu cuộc sống.
02/03/2022(Xem: 6318)
CHÁNH PHÁP Số 124, tháng 3.2022 Hình bìa của Kranich17 (Pixabay.com) NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XUÂN VỀ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6
01/03/2022(Xem: 3907)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 3874)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
24/02/2022(Xem: 2538)
Nhà kiến tạo hòa bình, nhà tâm lý học, nhà cải cách xã hội học, nhà giáo dục và Phật giáo Dấn thân nổi tiếng, người Mỹ và được trên thế giới kính trọng, Tiến sĩ Phật tử Paula Green sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1937 tại Hoa Kỳ, đã thanh thản trút hơi thở từ giã trần gian vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, hưởng thọ 84 tuổi.
24/02/2022(Xem: 2526)
Tôi học mãi Phẩm 6 về “ Người Hiền Trí “trong kinh Pháp Cú và bài thứ tư trong kinh Trung Bộ “ Sợ Hãi và Khiếp Đảm “ mà vẫn không chán vì càng học càng thấy nhiều lợi ích để tu tập và sửa đổi những tật xấu và lỗi lầm của mình trên đường tu học nhất là khi mình được một đại phước duyên gần gũi một bậc hiền trí . Thú thật ….trong những năm tự nhốt mình trong tháp ngà tôi đã nghiên cứu Thiền, Tịnh, Mật, rất cẩn thận từ ghi chép, nghe nhiều pháp thoại, so sánh kinh sách nhiều tông phái …thế nhưng chưa bao giờ như lúc này tôi cảm nghiệm lời dạy Đức Phật lại thâm huyền và siêu việt hơn bao giờ hết khi phối hợp hai phẩm này trong hai bộ kinh căn bản nhất cho những ai bước trên đường Đạo . Trộm nghĩ dù với tuổi nào khi chưa hoàn tất hay gặt hái được mục đích thành tựu của Trí Tuệ ( DUY TUỆ THỊ NGHIÊP) thì chúng ta hãy cứ bước đi mà chẳng nên dừng lại .
24/02/2022(Xem: 5885)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
22/02/2022(Xem: 3452)
Trong lịch sử, các đại dịch đã buộc nhân loại phải đoạn tuyệt với quá khứ và hy vọng ở tương lai thế giới mới của họ. Điều này không có gì khác lạ. Nó là một cổng thông tin, một cửa ngõ, giữa thế giới đương đại và thế giới tương lai. Nhà văn, nhà tiểu luận, nhà hoạt động người Ấn Độ Arundhati Roy, Đại dịch là một cổng thông tin
21/02/2022(Xem: 2360)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567