Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm Thức Và Bản Chất Sâu Thẩm Của Tâm Thức

12/05/201908:23(Xem: 8404)
Tâm Thức Và Bản Chất Sâu Thẩm Của Tâm Thức

 

TÂM THỨC VÀ BẢN CHẤT SÂU THẨM CỦA TÂM THỨC

 

Nguyên bản: Mind and the Deep Nature of Mind

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

His-Holiness-Dalai-Lama-tam-thuc

*

 

Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau:

 

Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.

 

Để thấu hiểu những trình độ ý nghĩa của trong tuyên bố này, chúng ta phải xác định tâm là gì, hãy phản tích bản chất sâu xa của nó, và khảo sát vấn đề những ảnh hưởng tốt và xấu của nó xảy ra như thế nào? Chúng ta hãy thẩm tra những thành phần khác nhau của tuyên bố này.

 

1-    Cụm từ “trong tâm” được quan tâm với tâm là gì – bản chất rực sáng và hiểu biết của nó. Trong chương Bảy, về thiền tập trung, chúng ta đã nói về bản chất rực sáng và hiểu biết của tâm và vấn đề, mặc dù nó tồn tại khắp mỗi thời khắc của tâm, nhưng nhất thiết phải đặt một bên những tư tưởng trước đó và không bắt đầu những thứ mới nhằm để xác định nó.

2-    Khi Đức Phật nói “tâm không thể tìm thấy,” điều này biểu thị rằng bản chất rực sáng và hiểu biết không phải là tính chất sâu xa nhất và cuối cùng của tâm. Đúng hơn, bản chất tận cùng của tâm là “linh quang”, tánh không của sự tồn tại cố hữu của nó.

 

Chúng ta có thể nghĩ là Đức Phật đang nói rằng tâm không tồn tại, nhưng không phải như vậy. Tôi, như người giải thích, đang giải thích tuyên bố này qua những việc làm của chính tâm thức tôi, và bạn, những người đọc, đang đọc bằng những việc làm của tâm thức bạn. Chúng ta luôn luôn đang sử dụng tâm thức, và nó luôn luôn bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta không biết nó nhiều. Vì vậy, mặc dù thật khó để nhận ra tâm, nhưng nó tồn tại và đang được phân tích về phần bản chất sâu thẩm của chính nó.

 

Rõ ràng là tâm tồn tại, nhưng vì nó không được thiết lập như bản chất rốt cùng và xu hướng căn bản của nó, vậy thì mô hình hiện hữu của nó là gì? Bản chất sâu xa của nó chỉ là tánh không đơn thuần của chính sự tồn tại cố hữu của nó. Điều này có nghĩa là những phiền não làm nhiễm ô tâm thức – chẳng hạn như sân hận, tham muốn và thù oán – là tạm thời, và do vậy có thể tách rời khỏi tâm. Một khi những phiền não này được thấu hiểu là cạn cợt và không ở trong bản chất cốt lõi của tâm, thì chúng ta sẽ thấy rằng bản chất sâu thẩm của tâm là linh quang, tánh không.

 

PHIỀN NÃO LÀ NÔNG CẠN, BẢN CHẤT CỦA TÂM LÀ LINH QUANG

 

Kinh điển Phật giáo giải thích những cách khác nhau về tuyên bố, “Phiền não là nông cạn, bản chất của tâm là linh quang.” Tuy thế, đây không phải là một vấn đề mà lời của Đức Phật nói về điều gì đó mơ hồ để ai muốn diễn dịch thế nào cũng được. Đúng hơn, nó có nhiều ý nghĩa rõ ràng và ẩn tàng. Trong Tantra Yoga Tối Thượng có nhiều cách để rút ra ý nghĩa của một tuyên bố khó hiểu. Chúng ta có thể giải thích nghĩa đen của nó, ý nghĩa tổng quát của nó, ý nghĩa ẩn tàng của nó, và ý nghĩa tối hậu của nó.

 

Để làm minh bạch lời tuyên bố của Đức Phật, “Phiền não là nông cạn, bản chất của tâm là linh quang,” trong việc phối hợp với mật thừa Tantra, tôi sẽ trích dẫn Danh Sách Huyền Thuật Mật Tông[1] vốn có một đoạn trong Trì Tụng Những Danh Tự Của Văn Thù Sư Lợi Mật Tông[2]:

 

Những Đức Phật hoàn thiện sinh khởi từ A.

A là tuyệt đỉnh của những mẫu tự.

 

Từ trong bốn ý nghĩa được liệt kê ở trên, tôi sẽ cho một sự giải thích tổng quát về tuyên bố này. Mẫu tự A là một từ phủ định[3] trong Sanskrit. Nó biểu thị tánh không, vốn là sự vắng mặt, hay phủ định, của sự tồn tại cố hữu. Khi Danh Sách Huyền Thuật Mật Tông nói rằng “Những Đức Phật hoàn thiện sinh khởi từ A”, điều này có nghĩa rằng hiện ra từ trong không gian tự thể[4] của tánh không; hay; đặt vào một cách khác, chư Phật hiện ra từ thiền na tánh không của sự tồn tại cố hữu. Qua việc hành thiền, các phiền não được tiêu trừ trong không gian tự thể của thực tại (tánh không của sự tồn tại cố hữu). Tánh không, biểu tượng bằng A, là chủ đề tối thượng và do thế Danh Sách Huyền Thuật Mật Tông nói, “A là tuyệt đỉnh của những mẫu tự.”

 

Cũng thế, từ quan điểm của Tantra Yoga Tối Thượng, mẫu tự A liên  hệ hạt không thể phá hoại trong thân Phật thành tựu. Trong Tantra Yoga Tối Thượng, Quả Phật sinh khởi bởi tập trung nhất tâm trên hạt không thể phá hoại tại trung tâm của tim. Thân tối hậu của một Đức Phật có bản chất của hạt không thể phá hoại. Điều này bổ sung cho sự thấu hiểu của chúng ta về tuyên bố rằng chư Phật hoàn thiện sinh khởi từ mẫu tự A.

 

Hạt không thế phá hoại[5] là gì?  Nó là sự phối hợp của gió rất vi tế và tâm rất vi tế. Tâm biết những đối tượng, trái lại gió, hay năng lượng nội tại, làm thức liên kết các đối tượng. Vì đây là trường hợp, với một phối hợp của gió và tâm cho nên có những sự thay đổi trong thức.

 

TÂM VÔ THỈ

 

Thức là phi vật chất. Nó không màu sắc hay hình thể hay phẩm chất chướng ngại những thứ vật chất. Thực thể của nó chỉ là rực sáng và tri giác, và khi nó gặp gở những điều kiện nào đó (chẳng hạn như khi một đối tượng hiện diện và một năng lực cảm giác đang thể hiện một cách thích đáng), nó phản chiếu đối tượng đó. Rằng tâm thay đổi từng thời khắc, và xuất hiện trong những khía cạnh khác nhau, cho thấy rằng tâm hoạt động dưới ảnh hưởng khác của các nguyên nhân và điều kiện.

 

 Một tâm sinh khởi trong sự lệ thuộc trên một tâm trước của một loại tương tự, vốn đòi hỏi rằng có một sự tương tự không có bắt đầu trước của tâm. Nếu sự sản sinh một tâm không cần lệ thuộc trên những thời khắc trước của tâm nhưng có thể đúng là được sản sinh một cách không có nguyên nhân, thế thì một tâm có thể được sản sinh bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào, điều đó là vô lý. Tương tự thế, nếu thức không được sản sinh như một sự tương tục của một thực thể thức trước và thay vì thế được sản sinh từ điều gì đó vật chất, hoặc là nó luôn luôn, một cách vô lý, được sản sinh hay nó sẽ không bao giờ được sản sinh, vốn cũng là vô lý. Điều này cho thấy rằng thức là một sự tương tục của một thực thể thức trước.

 

Bởi vì thức được căn cứ trong một thời khắc trước của thức, thì không thể có một sự bắt đầu đối với sự tương tục của nó. Không có sự bắt đầu của thức, và không có sự chấm dứt của nó, vô thỉ và vô chung. Sự tương tục này làm cho có thể có một sự chuyển hóa tâm trong những thể trạng được cải thiện. Khi sự tương tục tinh thần được phối hợp trong những trạng thái bất tịnh, thì trải nghiệm của chúng ta bị giới hạn trong thế giới luân hồi. Khi sự tương tục tinh thần thoát khỏi những trạng thái bất tịnh, thì chúng ta có thể thành tựu niết bàn. Trong cách này, tất cả mọi hiện tượng bất tịnh của luân hồi là biến dị của tâm bất tịnh, những hiện tượng thanh tịnh của niết bàn là biến dị của tâm thanh tịnh.

 

NHỮNG TRẠNG THÁI SAI LẦM CỦA TÂM TÙY THUỘC TRÊN SI MÊ

 

Vì như được nói rằng “Trong tâm, không thể tìm thấy được tâm, bản chất của tâm là linh quang,” những trạng thái bất tịnh chẳng hạn như tham muốn và thù oán không phải là một bộ phận của tâm bản nhiên và phải được sản sinh bởi si mê – một thức hiểu sai sự tồn tại cố hữu – hoặc là trong thời khắc hiện tại hay từ một nguồn gốc trước đó. Tất cả những trạng thái sai lầm của tâmthức sai lầm như gốc rể của chúng. Si mê là một mô hình của thức vốn sai lầm tương ứng với đối tượng mà nó chú ý; nó sai về nó; nó không có tri giác có căn cứ như gốc rể của nó.

 

Một sự tỉnh thức sai lầm và một sự tỉnh thức với một nền tảng vững chắc có những cung cách mâu thuẩn với nhau  trong việc thấy rõ các hiện tượng, cho nên thứ này làm tổn hại thứ kia. Khi, trong sự thực hành của chúng ta, chung ta trở nên quen thuộc với những thái độ đúng đắn, thì những trạng thái sai lầm của tâm tự nhiên giảm thiểu cho đến cuối cùng thì chúng bị triệt tiêu.

 

Chính hệ thống của giáo huấn nhà Phật được căn cứ trên sự mâu thuẩn tự nhiên. Chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Đau khổ mà chúng ta muốn tránh xuất phát chính yếu từ những thái độ tinh thần, và vì nguồn gốc của nỗi khổ tinh thần là những cảm xúc phiền não hoặc là trực tiếp hay gián tiếp, cho nên chúng ta phải xem xét có bất cứ năng lực nào đối kháng với chúng. Thí dụ, nếu sân hận làm đau khổ, thế thì chúng ta phải tìm ra một năng lực đối trị. Đối với sân hận là từ ái và bi mẫn. Mặc dù và từ ái/ bi mẫn đều là ý thức, cho nên chúng có những cung cách lãnh hội đối kháng với cùng đối tượng. Tương tự thế, nếu một căn phòng là quá nóng, thì không có cách nào làm giảm thiểu sức nóng ngoài việc làm sinh ra hơi lạnh. Giống như nóng và lạnh đối lập nhau, cũng làm như thế với những trạng thái tinh thần, thanh tịnh và bất tịnh. Đối với phạm vi ta phát triển thứ này thì thứ kia giảm thiểu. Do vậy, chúng ta có thể loại trừ những trạng thái sai lầm của tâm. Những sự đối trị tồn tại.

 

SỰ PHỐI HỢP CỦA QUY ƯỚC VÀ CỨU KÍNH

 

Tâm tự nó là một chân lý quy ước (thế đế); thực tại của tâm, tánh không sự tồn tại cố hữu của nó, là chân lý cứu kính (chân đế). Hai chân lý này được chứa đựng trong một thực thể không thể tách rời. Giống như có một hợp thể của hai chân lý, quy ước và cứu kính, với sự tương ứng với tâm, cho nên có một hợp thể của hai chân lý với sự tương ứng với mỗi thứ và mỗi đối tượng. Hiện tướng của nó là chân lý quy ước, và tánh không sự tồn tại cố hữu của nó là chân lý cứu kính.

 

Thực tại cuối cùng được biết qua lý luận của duyên sanh. Thí dụ, vì tâm là một thực thể duyên sanh; cho nên tâm là trống rỗng sự tồn tại cố hữu. Khi chúng ta thấu hiểu tánh không qua lý luận duyên sanh, thì chúng ta nhận ra rằng tất cả mọi hiện tượng là những hợp thể duyên sanh và tánh không; hiện tướng và tánh không được nhận thức như hòa hiệp.

 

Những hiện tướng duyên khởi của các hiện tượng quy ước cung ứng một phạm trù cho giáo huấn từ bi – được gọi là “con đường rộng lớn,” khi có những hiện tướng vô cùng đa dạng. Tánh không của sự tồn tại cố hữu của các hiện tướng cung ứng căn bản cho giáo lý được biết như “con đường thâm sâu”, vì tánh không được biết như bản chất cứu kính của các hiện tượng – hòa bình, thoát khỏi những khái niệm, và của một vị. Qua hành thiền trau dồi hai con đường này – khía cạnh rộng lớn của từ bi và tuệ trí thâm sâu của tánh không – trong một cung cách không thể tách rời, những trạng thái sai lầm của tâm trong sự tương tục của chúng ta trải qua sự chuyển hóa dần dần. Chúng dần dần được tiêu trừ, và những cống hiến tuyệt vời của một tâm thức và thân thể của một Đức Phật hiện ra.

 

Quả Phật được thành tựu qua sự trau dồi phối hợp của cả động cơ và tuệ trí. Tuy nhiên, động cơ và tuệ trí có những dấu ấn tương ứng của chúng trong Quả Phật. Kết quả của việc trau dồi động cơ là Những Thân Thể Sắc Tướng[6] của một Đức Phật, vốn tồn tại  vì lợi ích cát tường của chúng sanh. Dấu ấn của việc trau dồi tuệ trí là Thân Thể Chân Thật [7]của một Đức Phật, vốn là hoàn thành sự phát triển của chính ta. Hình thức chính của động cơ và tuệ trí là gì? Động cơ chính yếu là một mục tiêu chỉ đạo để trở thành Giác Ngộ, được truyền cảm hứng bởi từ ái và bi mẫn và truyền cảm hứng cho việc thực hiện các hành động từ bi chẳng hạn như bố thí, đạo đức, và nhẫn nhục. Mô thức chính của tuệ trí là một thức thông minh nhận ra tánh không của sự tồn tại cố hữu.

 

*

 

Nền tảng của Phật giáo có ba phương diện. Căn bản là hai chân lý, quy ước và cứu kính. Từ hai chân lý này con đường [tu tập] hiện ra với nhân tố kép của động cơ và tuệ trí, mỗi thứ liên hệ với chân lý tương ứng của nó. Quả phẩm, hay kết quả của việc du hành trên con đường, là việc thực chứng hai thân – Thân Sắc Tướng và Thân Chân Thật của một Đức Phật. Để mang điều này cùng với nhau trên căn bản của hai chân lý – quy ước và cứu kính – chúng ta thực hành hai phẩm chất của con đường – động cơ và tuệ trí – vốn đưa chúng ta thành tựu quả phẩm, Thân Thể Sắc tướng và Chân Thật của một Đức Phật.

 

TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

 

1-    Hãy xác định bản chất rực sáng và hiểu biết của tâm, không bị mây mờ bởi các tư tưởng.

2-    Thăm dò bản chất thâm sâu của tâm liên tục để khám phá việc vắng mặt của sự tồn tại cố hữu của nó, tánh không của nó, bằng việc phản chiếu trên sự lệ thuộc của tâm vào các nguyên nhân và điều kiện và lệ thuộc trên những thành phần – kể cả sự kiện rằng bất cứ chiều dài nào của thời gian trải qua trong tâm lệ thuộc vào những thành phần trước đó và sau đó của thời điểm đó.

3-    Hãy cố gắng nhận ra tính tương thích của sự xuất hiện của tâm với tánh không của sự tồn tại cố hữu của nó; hãy thấy vấn đề hai điều hổ tương này sự hổ trợ nhau như thế nào.

 

*

 

Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, May 1, 2019



[1] Magical Array Tantra

[2] Repetition of the Names of Manjushri Tantra

[3] Negative particle

[4] Noumenal sphere

[5] Indestructible drop

[6] Báo thân và hóa thân

[7] Pháp thân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/08/2021(Xem: 6553)
Các câu trích dẫn giáo huấn của Đức Đạt-lai Lạt-ma dưới đây được ghi lại từ một tư liệu trên trang mạng tiếng Pháp Evolution-101 https://www.evolution-101.com/citations-du-dalai-Lama/. Các câu này được xếp theo các chủ đề: 1- Tình thương yêu 2- Tiền bạc 3- Hạnh phúc 4- Lòng tốt
18/08/2021(Xem: 9719)
LỜI MỞ ĐẦU Thông thường ở bất cứ quyển sách nào cũng có lời mở đầu của chính tác giả, hoặc lời giới thiệu của một người nào đó cho tác phẩm sắp được ra đời. Nay cũng nằm trong thông lệ ấy, tôi viết lời nói đầu cho quyển sách năm nay lấy tên là: "CHÙA VIÊN GIÁC", một quyển sách bằng tiếng Việt mà bao nhiêu người đã chờ đợi.
17/08/2021(Xem: 7468)
Thật là một điều kỳ diệu và lý thú khi được tin báo trên Viber là Tuyển Tập pháp Thoại vừa hoàn thành và đã sẵn sàng đến tay Phật Tử khi đến dự Lễ Vu Lan tại Tu Viện Quảng Đức (nếu không bị lockdown). Vì sao gọi là kỳ diệu? Chỉ sau khi tôi được học xong 10 duyên mà Đức Phật cho là quan trọng nhất theo thứ tự của 24 duyên, mà chúng ta ai cũng phải gặp trong thời gian còn làm người phàm, và nếu hiểu rõ tường tận thì mình có thể sẽ không bao giờ thốt lên câu “Học muôn ngàn chữ nghĩa nhưng không ai học được chữ Ngờ” của bộ Đại Phát Thú / Vi Diệu Pháp, do Giảng Sư Thích Sán Nhiên đã thuyết giảng qua 61 video, mỗi video kéo dài từ 3: 00 đến 3:50 giờ. Chính vì thế, nhờ đó tôi chợt nhận ra nhân duyên gì đã làm trưởng duyên và đẳng vô gián duyên, để tôi đến với Đại Gia Đình Quảng Đức Đạo tràng nói chung, và tiếp xúc liên hệ với TT Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng và được cộng tác với Ngài trên trang website Phật Giáo, Trang Nhà Quảng Đức, để rồi hôm nay lại có duyên
17/08/2021(Xem: 5038)
Phần này bàn về cách dùng nên so với lên vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các âm này được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Ngoài ra, từ thời Việt Bồ La thì nước Việt đã mở rộng bờ cõi đến tận Cà Mau và khuếch đại các sự khác biệt trong ngôn ngữ như phương ngữ Nam bộ (tiếng Nam Kỳ) so với Bắc Bộ. Do đó các nhân tố địa-chính-trị đã đóng phần không nhỏ trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại, thí dụ như cách nói "nên mười tuổi", cùng với khuynh hướng "chuẩn hóa" tiếng Việt so với hiện tượng lẫn lộn n và l mà một số tác giả cho là ‘nói ngọng’ đều liên hệ phần nào đến chủ đề bài này.
16/08/2021(Xem: 7160)
Con người sinh ra từ xưa đến nay ai ai cũng phải trải qua 4 giai đoạn. Đó là: Sanh, Già, Bệnh và Chết. Tuy nhiên cũng có người chỉ sanh ra rồi chết liền, không trải qua giai đoạn già hay bịnh; hoặc có người chưa già đã chết vì bịnh hay tai nạn; cũng có lắm người phải sống đến 100 năm hay hơn thế nữa để thấy cuộc thế đổi thay, nhiều khi muốn chết mà chết cũng không được. Dẫu biết rằng sống hay chết là một việc tự nhiên của con người, của muôn vật và ngay cả những chúng sanh có đời sống cao hơn và lâu dài hơn chúng ta, như những vị được sanh ra ở cõi Sắc hay cõi Vô Sắc đi chăng nữa, rồi một ngày nào đó cũng phải chết, phải đi đầu thai. Họ chỉ khác chúng ta là ở cõi đó đời sống sung sướng hơn, có tuổi thọ dài lâu hơn. Vì khi làm người, họ đã biết tạo dựng nhiều phước báu, nên kiếp nầy họ mới được như vậy.
15/08/2021(Xem: 4922)
Cúng ma chay, giỗ người thân đã mất, giỗ ông bà tổ tiên, cúng cô hồn vào những ngày rằm, ngày lễ như lễ Vu Lan, Tết Nguyên Đán …vv cùng với đốt vàng mã là truyền thống ‘tâm linh’ lâu đời của người Việt Nam, là cách tưởng niệm, bày tỏ lòng biết ơn, hiếu đễ đối với người đã khuất, tổ tiên và thần linh. Ngày nay, việc cúng người chết, cúng ‘cô hồn’ và đốt vàng mã tràn lan trên tinh thần kiến chấp ‘dương sao âm vậy’, nên các loại vàng mã thay đổi đa dạng sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế nầy: ngoài áo giấy ra, vàng mã còn có cả xe hơi, nhà lầu, ipad, di động, đô la vv với ý niệm ‘thiện lành’ (nhưng tà kiến) là để người ‘âm’ sử dụng. Không những tập tục này phát triển biến tướng trong nhân gian mà còn ảnh hưởng không tốt đến môt số Phật tử tại gia, và ngay cả tại một số tự viện.
15/08/2021(Xem: 7351)
Là người hay là thú, sinh ra đời nếu bộ não bình thường thì tất cả đều có cái biết. Biết đói, biết no, biết khát, biết nóng, biết lạnh, biết thiếu, biết đủ v.v… Tâm trí loài vật, có nhiều loài khá khôn ngoan, nhưng khôn ngoan cách nào cũng không bằng con người. Khi còn nhỏ cái biết của con người rất hạn hẹp. Khi lớn lên cái biết dần mở rộng, nhờ học hỏi từ môi trường gia đình, học đường, xã hội. Tùy theo căn cơ mà có người thông minh học một biết mười, có người kém thông minh chậm hiểu. Nhưng dù cái biết của người thông minh hay cái biết của người kém thông minh thì đó cũng là cái biết cần thiết cho đời sống.
13/08/2021(Xem: 6374)
Công ơn cha mẹ tựa biển trời Làm sao báo hiếu hỡi người ơi? Nếu chưa báo hiếu đừng bất hiếu Bất hiếu làm ta khổ trọn đời.
13/08/2021(Xem: 8984)
Nam Mô Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ Tát Phật Dạy Ân Đức Cha Mẹ - A-nan! Ân đức cha mẹ có 10 điều sau đây: MỘT là ân thai mang giữ gìn: Vì sự nghiệp lực nhân duyên, nên nay ky' thác thai mẹ. Lâu ngày khổ sở, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội núi, đi đứng sợ gió mưa, quần áo không sửa soạn, trang điểm còn kể chi.
09/08/2021(Xem: 8144)
Các lời trích dẫn giáo lý của Đức Phật cùng các danh nhân khác thường thấy trên mạng, báo chí và tạp chí đủ loại tại các nước Tây phương. Dường như trong cuộc sống dồn dập tại các nơi này, một số người đôi khi cũng thích đọc một vài câu ngắn gọn nhưng sâu sắc, giúp mình suy nghĩ về xã hội, con người và sự sống nói chung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]