Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 02: Thiền Tập - Sự Khởi Đầu

08/01/201919:10(Xem: 4632)
Chương 02: Thiền Tập - Sự Khởi Đầu

CHƯƠNG 2: THIỀN TẬP -  SỰ KHỞI ĐẦU

 

 

Thursday, September 27, 2012

 

TRONG CHƯƠNG NÀY, chúng ta khám phá những kỷ năng cho việc thay đổi tâm thức từ những thói quen để những cung cách đạo đức hơn.  Có hai phương pháp của thiền tập được sử dụng trong sự thực tập của chúng ta.  Một là, thiền phân tích[1], là phương tiện mà qua đấy chúng ta tự làm quen với những ý tưởng và thái độ tinh thần mới.  Thứ kia là thiền ổn định[2], tập trung tâm thức trên một đối tượng chọn lựa.

 

Mặc dù tất cả chúng ta tự nhiên thiết tha mong mõi được hạnh phúc và ao ước vượt thắng khổ não, nhưng chúng ta tiếp tục trải nghiệm đau đớn và khổ sở.  Tại sao là như thế?  Phật Giáo dạy rằng chúng ta thật sự được kết hợp lại trong những nguyên nhân và điều kiện và chúng đã tạo nên những sự bất hạnh của chúng ta, và thường không sẳn lòng dấn thân trong những hành vi có thể đưa đến niềm hạnh phúc bền lâu.  Việc này là như thế nào?  Trong cung cách thông thường của đời sống, chúng ta tự để bị khống chế bởi những tư tưởng và cảm xúc mạnh mẽ, những thứ rồi thi cho phát sinh các tình trạng tiêu cực của tâm thức.  Chính là do vòng lẩn quẩn  này mà chúng ta  làm tồn tại mãi mãi không chỉ sự bất hạnh cho chúng ta mà cũng cho những người khác.  Chúng ta phải xây dựng một lập trường để cải đổi những khuynh hướng này và thay thế chúng với những thói quen mới.  Như một cành tươi non ghép trên một thân cây cằn cổi cuối cùng hòa nhập đời sống với cây ấy và tạo nên một cây mới, chúng ta phải nuôi dưỡng khuynh hướng ấy bằng việc trau dồi một cách cẩn trọng những sự thực tập đạo đức.  Đây là ý nghĩa và đối tượng chân thật của thiền tập.

 

Quán chiếu về bản chất khổ não của đời sống, xem xét những phương pháp nhờ đó nỗi khổ của chúng ta có thể được đưa đến chỗ chấm dứt, là một hình thức của thiền tập.  Quyển sách này là một hình thức của thiền tập.  Tiến trình mà qua đó chúng ta chuyển  hóa thái độ bản năng hơn của chúng ta đối với đời sống, thể trạng ấy của tâm thức chỉ hài lòng sự khao khát và lẫn tránh sự không thoải mái, là ý nghĩa của những gì khi chúng ta sử dụng từ ngữ thiền tập.  Chúng ta có khuynh hướng bị khống chế bởi tâm thức chúng ta, tuân theo nó cùng với lối mòn vị kỷ của nó.  Thiền tập là một tiến trình mà nhờ đó chúng ta đạt được kiểm soát đối tâm thức và hướng dẫn nó trong một phương hướng đạo đức hơn.  Thiền tập có thể được nghĩ như một kỷ năng mà nhờ đó chúng ta giảm bớt năng lực của thói quen tư tưởng cũ và phát triển những thói quen tốt đẹp mới.  Nhờ thế, chúng ta bảo vệ chính mình khỏi dấn thân trong những hành vi của tâm ý, lời nói, hay thân thể đưa đến khổ não cho chúng ta.  Thiền tập như vậy được sử dụng một cách rộng rãi trong sự thực tập tâm linh của chúng ta.

 

Kỷ năng này không ở trong và của chính Phật Giáo.  Giống  như người nhạc sĩ rèn luyện đôi tay của họ, những vận động viên với sự uyển chuyển và kỷ năng của họ, nhà ngôn ngữ học với đôi tai của họ, nhà bác học với nhận thức của họ, vì thế chúng ta hướng đến tâm thức và trái tim của chúng ta.

 

Làm quen chính mình với những khía cạnh khác nhau của việc thực hành tâm linh do thế là một hình thức của thiền tập.  Chỉ đơn giản đọc qua một lần không có lợi lạc gì nhiều.  Nếu các bạn thích thú, thật hữu ích để quán chiếu những đề tài được đề cập, như chúng tôi đã đề cập ở chương trước với hành vi không đức hạnh về nói với vô nghĩa, và rồi nghiên cứu chúng một cách bao quát hơn để mở rộng sự thấu hiểu của chúng ta.  Càng khám phá chủ đề và chinh phục nó đến sự nghiên cứu kỷ lưỡng tinh thần, chúng ta càng thấu hiểu nó một cách sâu sắc hơn.    Điều này có thể cho phép chúng ta phán xét nó một cách có cơ sở vững chắc.  Nếu qua sự phân tích chúng ta minh chứng điều gì đó là vô giá trị, thế thì chúng ta đặt nó qua một bên.  Tuy nhiên, nếu chúng ta kiến lập điều gì đó một cách độc lập là đúng đắn, thế thì niềm tin của chúng ta trong chân lý ấy là một sự kiên cố đầy năng lực.  Toàn bộ tiến trình nghiên cứu và sự quan sát kỷ lưỡng này phải được nghĩ như là một hình thức của việc hành thiền.

 

Chính Đức Phật đã nói rằng, "Này các môn đệ và những người thông tuệ, đừng chấp nhận lời nói của ta chỉ đơn giản vì sự tôn kính.  Các con phải đưa chúng ra phân tích phê bình và chấp nhận chúng trên căn bản sự thấu hiểu của các con."  Tuyên bố nổi tiếng này có nhiều ngụ ý.  Rõ ràng Đức Phật đang nói với chúng ta rằng khi chúng ta đọc một bản văn chúng ta không nên chỉ dựa vào danh tiếng của tác giả nhưng đúng hơn là căn cứ vào nội dung của tác phẩm.  Và khi nắm bắt nội dung, chúng ta nên dựa trên vấn đề chủ đề và ý nghĩa hơn thể loại văn chương.  Khi liên hệ đến chủ đề, chúng ta nên dựa trên sự thấu hiểu kinh nghiệm hơn là trên sự nắm bắt thông minh.  Nói cách khác, chúng ta phải phát triển một cách căn bản hơn là chỉ đơn thuần trên kiến thức trừu tượng không thực tế của Giáo Pháp.  Chúng ta phải hợp nhất chân lý giáo huấn của Đức Phật vào trong chiều sâu của chính con người chúng ta, vì thế chúng trở thành được phản chiếu trong đời sống chúng ta.  Bi mẫn chỉ có giá trị nhỏ bé nếu nó tiếp tục vẫn là một ý tưởng.  Nó phải trở thành thái độ của chúng ta đối với người khác, phản chiếu trong tất cả mọi tư tưởng và hành vi.  Và khái niệm khiêm tốn đơn thuần không giảm thiểu tính kiêu căng của chúng ta; nó phải trở thành thể trạng thật sự của con người cũng như sự biểu hiện.

 

 

QUEN THUỘC VỚI CHỦ ĐỀ CHỌN LỰA

 

Tạng ngữ cho thiền tập là gom, có nghĩa là "làm quen thuộc".  Khi chúng ta sử dụng thiền trên con đường tâm linh, đấy là để làm quen thuộc chính mình với một đối tượng chọn lựa.  Chủ đề này không nhất là một vật thể vật lý chẳng hạn một hình tượng của Đức Phật hay Giê-su trên thánh giá.  "Đối tượng chọn lựa" có thể là một phẩm chất chẳng hạn như kiên nhẫn, là điều chúng ta thực hiện việc trau dồi bên trong chính chúng ta bởi phương tiện thiền quán chiếu.  Nó cũng có thể là chuyển động nhịp nhàng của hơi thở, là điều chúng ta thực hiện để làm tĩnh lặng tâm tư bất ổn của chúng ta.  Và nó cũng có thể chỉ là một phẩm chất của trong sáng và hiểu biết - tâm thức của chúng ta - bản chất của việc chúng ta tìm kiếm để thấu hiểu.  Tất cả những kỷ năng này được diễn tả trong chiều sâu của trang sách kế tiếp.  Bằng những phương tiện này kiến thức chúng ta về đối tượng lựa chọn được lớn mạnh.

 

Thí dụ, khi chúng ta tìm kiếm một loại xe hơi để mua, đọc ưu và khuyết của những hảng xe khác nhau, chúng ta phát triển một cảm nhận về những phẩm chất của một sự chọn lựa đặc thù.  Bằng việc quán chiếu những phẩm chất này, sự đánh giá của chúng ta về chiếc xe này sâu sắc hơn, với mong muốn sở hữu nó.  Chúng ta có thể trau dồi những đức hạnh chẳng hạn như kiên nhẫn và bao dung trong cùng cách rất giống như thế.  Chúng ta cũng làm thế bằng việc quán chiếu những phẩm chất đã cấu thành sự kiên nhẫn, sự hòa bình của tâm thức phát sinh trong chúng ta, môi trường hòa hiệp được tạo nên như một kết quả của nó, sự tôn trọng nó đem lại trong những người khác.  Chúng ta cũng hành động để nhận ra những hạn chế của sự thiếu kiên nhẫn, sự giận dữ và thiếu bao dung chúng ta khổ sở trong ấy, sự sợ hãi và thù địch nó mang đến những người chung quanh chúng ta. Bằng việc thực hành một cách cần mẫn theo những dòng tư tưởng này, sự kiên nhẫn của chúng ta tiến bộ một cách tự động, tăng trưởng mạnh hơn và mạnh hơn, ngày qua ngày, tháng qua tháng, và năm này qua năm khác.  Tiến trình thuần hóa tâm thức là một tiến trình lâu dài.  Tuy nhiên, một khi chúng ta đã làm chủ sự kiên nhẫn, niềm hoan hỉ xuất phát từ đấy tồn tại lâu hơn bất cứ niềm vui nào có được từ chiếc xe hơi ta mua được.

 

Chúng ta thật sự dấn thân trong việc hành thiền như thế rất thường xảy ra trong đời sống hằng ngày của chúng ta.  Chúng ta đặc biệt làm lớn mạnh rất tốt một cách quen thuộc đối với những khuynh hướng bất thiện!  Khi không hài lòng với người nào đó, chúng ta có thể quán chiếu đến lỗi lầm của người đó và phát sinh một niềm tin chắc chắn về bản chất đáng nghi ngờ của người đó.  Tâm thức chúng ta tiếp tục duy trì sự tập trung trên 'đối tượng' trong việc hành thiền của chúng ta, và sự quán chiếu của chúng ta cho người đó do thế gia tăng mãnh liệt.  Chúng ta cũng quán chiếu và phát triển sự quen thuộc với những đối tượng chọn lựa  khi chúng ta tập trung trên sự việc nào đó hay người nào đó mà chúng ta yêu thích. Rất ít sự khích động cần đến để duy trì sự tập trung của chúng ta.  Thật khó khăn hơn để duy trì tập trung khi chúng ta trau dồi đạo đức.  Đây là một biểu hiện chắc chắn của vấn đề những cảm xúc của luyến ái và tham dục tràn ngập như thế nào!

 

Có nhiều loại thiền tập.  Có một số loại không đòi hỏi nghi thức hay một tư thế đặc thù nào.  Chúng ta có thể hành thiền trong khi lái xe hay đi bộ, trên xe buýt hay xe lửa, và ngay cả trong khi tắm rửa.  Nếu chúng ta nguyện ước dành một thời gian đặc thù nào đó cho việc thực thành tập trung tâm linh, thật lợi ích để áp dụng vào buổi sáng sớm cho một buổi hành thiền nghi thức, thời gian mà tâm thức tỉnh táo và trong sáng nhất.  Thật lợi ích để ngồi trong một môi trường tĩnh lặng với lưng thẳng, vì nó giúp chúng ta duy trì sự tập trung.  Tuy nhiên, thật quan trọng để nhớ rằng chúng chúng ta phải trau dồi những thói quen đạo đức tinh thần bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào có thể.  Không thể giới hạn việc hành thiền trong những buổi thiền nghi thức.

 

 

THIỀN PHÂN TÍCH

 

Như tôi đã nói, có hai loại thiền tập được sử dụng trong quán chiếu và tiếp thu những chủ đề tôi thảo luận trong quyển sách này.  Thứ nhất, có thiền phân tích.  Trong hình thức thiền này, việc làm quen với một đối tượng chọn lựa - thí dụ như chiếc xe ta mong muốn hay lòng từ bi hay kiên nhẫn chúng ta mong cầu phát sinh - được trau dồi qua tiến trình phân tích dựa trên lý trí.  Ở đây, chúng ta không chỉ tập trung trên một chủ đề.  Đúng hơn, chúng ta đang trau dồi một cảm nhận gần gũi hay thấu cảm với chủ đề chọn lựa bằng việc áp dụng một cách cần mẫn khả năng quả quyết của chúng ta.  Đây là hình thức của thiền quán tôi sẽ nhấn mạnh khi chúng ta khám phá những chủ đề khác nhau và cần được trau dồi trong sự thực tập tâm linh.  Một số chủ đề này là đặc biệt đối với một sự thực tập của Phật tử, một số thì không.  Tuy nhiên, một khi chúng ta đã phát triển sự quen thuộc với một chủ đề bằng phương tiện của sự phân tích như vậy, thật quan trọng để sau đó duy trì tập trung trên nó bằng phương tiện thiền ổn định nhằm để giúp nó thâm nhập một cách sâu sắc hơn.

 

 

THIỀN ỔN ĐỊNH

 

Loại thứ hai là thiền ổn định.  Việc này xảy ra khi chúng ta an trụ tâm thức trên một đối tượng chọn  lựa mà không tiến hành phân tích hay suy tư.  Khi hành thiền trên bi mẫn, thí dụ thế, chúng ta ta phát triển sự thấu cảm cho người khác và hoạt động trong việc nhận ra nổi khổ não mà họ trải nghiệm.  Điều này chúng ta thực hiện bằng phương tiện của thiền phân tích.  Tuy nhiên, một khi chúng ta có một cảm nhận bi mẫn trong trái tim của chúng ta, một khi chúng ta thấy rằng thiền tập đã thay đổi một cách tích cực thái độ của chúng ta đối với người khác, chúng ta an trụ trên cảm nhận ấy, mà không đi vào suy tư.  Điều này giúp làm sâu sắc hơn sự bi mẫn của chúng ta.  Khi chúng ta cảm thấy rằng cảm nhận bi mẫn của chúng ta bị yếu đi, chúng ta có thể tiến hành lại trong thiền phân tích để đem lại sức sống cho sự thông cảm và quan tâm trước khi trở lại thiền ổn định. 

 

Khi chúng ta trở nên thuần thục hơn, chúng ta có thể khéo léo hoán chuyển giữa hai loại thiền tập nhằm để tẳng cường phẩm chất mong muốn.  Trong Chương 11, "Nhất Tâm Bất Loạn", chúng tôi sẽ thẩm tra kỷ năng của việc phát triển thiền ổn định đến điểm mà chúng ta có thể duy trì tập trung nhất niệm trên chủ đề thiền tập bao lâu tùy chúng ta muốn.  Như tôi đã nói, "chủ đề thiền tập" này không nhất thiết là điều gì đấy chúng ta có thể "thấy".  Trong một ý nghĩa, chúng ta hợp nhất tâm thức với chủ đề nhằm để trau dồi một sự quen thuộc với nó.  Thiền ổn định, giống như những hình thức khác của thiền tập, không phải vốn là đạo đức trong bản chất.  Đúng hơn, nó là đối tượng chúng ta tập trung và động cơ thúc đẩy điều mà chúng ta tiến hành trong sự thực tập quyết định phẩm chất tâm linh trong sự thiền tập của chúng ta.  Nếu tâm thức chúng ta tập trung vào lòng bi mẫn, việc hành thiền là đạo đức.  Nếu nó được đặt vào sự giận dữ, thì nó không phải đạo đức.

 

Chúng ta phải hành thiền trong luồng thái độ, việc trau dồi sự quen thuộc với một đối tượng được chọn lựa dần dần.  Việc học hỏi và lắng nghe với một vị thầy phẩm hạnh là một bộ phận quan của tiến trình này.  Sau đó chúng ta quán chiếu những gì chúng ta đã  đọc hay nghe, nghiên cứu cẩn thận nó để loại trừ bất cứ sự rối rắm, nhận thức sai lầm, hay nghi ngờ nào chúng ta có thể có.  Tiến trình này tự nó giúp tác động tâm thức.  Rồi thì, khi chúng ta tập trung trên đối tượng của chúng ta một cách nhất  niệm, tâm thức chúng ta trở nên hợp nhất với nó trong một thái độ mong muốn.

 

Thật quan trọng là trước khi chúng ta hành thiền trên những khía cạnh vi tế hơn của triết lý Phật Giáo, chúng ta có thể giữ tâm thức chúng ta tập trung trên những chủ đề đơn giản hơn.  Việc này giúp chúng ta phát triên khả năng phân tích và duy trì tập trung nhất niệm trên những chủ đề vi tế chẳng hạn như sự đối trị đối với tất cả những sự khổ não của chúng ta, đấy là tánh không của sự tồn tại cố  hữu (vô tự tánh).

 

Hành trình tâm linh của chúng ta là một hành trình dài.  Chúng ta phải lựa chọn con đường chúng ta một cách cẩn trọng, bảo đảm rằng nó bao hàm tất cả những phương pháp đưa chúng ta đến mục tiêu mong ước.  Có những lúc hành trình là gian khó.  Chúng ta phải biết điều chỉnh tốc độ chậm như sên trong việc quán chiếu sâu sắc trong khi cũng bảo đảm rằng chúng ta không quên những vấn nạn của hàng xóm chúng ta hay những con cá bơi lội trong những đại dương ô nhiễm hàng nghìn dặm xa nơi nào ấy.

 

Saturday, October 13, 2012 / 20:01:41


 




[1]Thiền phân tích: quán, thiền quán, tuệ minh sát, liễu biệt thiền.

[2]Thiền ổn định: chỉ, thiền định, thiền tập trung, tam muội thiền.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/12/2020(Xem: 4916)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 4938)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5370)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 4809)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
24/12/2020(Xem: 4114)
Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.
21/12/2020(Xem: 7362)
Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.
20/12/2020(Xem: 5934)
Trong một thời khắc lịch sử, cả nước đã chứng kiến sự hội tụ của quá khứ, hiện tại và tương lai khi ba thế hệ của triều đại Wangchuck, Vương quốc Phật giáo Buhtan đến viếng thăm khu đất của Pungthang Dewachhenpoi Phodrang vào ngày hôm 16 vừa qua. Lễ Kỷ niệm 113 năm Quốc khánh Vương quốc Bhutan, được tổ chức bên trong Punakha Dzong “Cung điện Hạnh Phúc”, từng là nơi ngự của Lama Zhabdrung Ngawang Namgyel đáng tôn kính hơn 400 năm trước, người đã có công thống nhất Bhutan và làm nền tảng để đất nước này phát triển an bình, thịnh vượng cho đến ngày nay.
20/12/2020(Xem: 5342)
Matxcơva, ngày 15 tháng 12: Hội nghị Bàn tròn trực tuyến với chủ đề “Đối thoại các Tôn giáo trong Thế giới hiện đại, Dialogue of Religions in Modern World“ do Học viện Ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao Liên bang Nga, Viện Nghiên cứu Học thuật về Cơ đốc giáo phương Đông (INaSEC) đồng tổ chức tại Khoa Tôn giáo và Thần học (FRT) thuộc Đại học Vrije Amsterdam và Đại học Chính thống Cơ đốc giáo, Nga nhân danh Thánh John Divine.
19/12/2020(Xem: 6087)
Cơ quan Chính quyền Trung ương Tây Tạng lưu vong (CTA) cho biết, Tôn giả Geshe Tenpa Gyaltsen, vị học giả Phật giáo Tây Tạng đã viên tịch, xả báo thân tại tu viện Gaden Jangtse, miền nam Ấn Độ, theo truyền thông cho hay, Ngài đã “Chết lâm sàng” đến nay gần 1 tháng (26 ngày), nhưng thi thể vẫn không phân hủy. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo và Văn hóa thuộc (CTA) cho thấy rằng, Tôn giả Geshe Tenpa Gyaltsen đã đi vào trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là thukdam (Tib: ཐུགས་ དམ་).
19/12/2020(Xem: 5243)
Tòa nhà Quốc hội Vương quốc Phật giáo Bhutan, thủ đô Thimphu, Bhutan. Hôm thứ Năm, ngày 10 tháng 12 vừa qua, cả hai Nghị viện Quốc hội Vương quốc Phật giáo Bhutan đã thông qua dự luật hợp pháp hóa các mối quan hệ đồng tính, biến Vương quốc Himalaya nhỏ bé trở thành quốc gia châu Á mới nhất thực hiện các bước, nhằm nới lỏng các hạn chế đối với các mối quan hệ đồng giới. Trước đó, mục 213 và 214 của bộ Luật Hình sự Vương quốc Phật giáo này quy định xu hướng “Tình dục trái với tự nhiên”, được hiểu rộng rãi là đồng tính luyến ái – không được phép.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]