Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm sự Nữ Sĩ BANG NHÃN qua bài thơ VỊNH NGŨ HÀNH SƠN

15/12/201822:06(Xem: 7806)
Tâm sự Nữ Sĩ BANG NHÃN qua bài thơ VỊNH NGŨ HÀNH SƠN
Nữ Sĩ BANG NHÃN  

Tâm sự Nữ Sĩ BANG NHÃN qua bài thơ

VỊNH NGŨ HÀNH SƠN

          

CHÂU YẾN LOAN

         

Người xưa sáng tác thơ ca là để thể hiện tâm tư, tình cảm của mình trước thời cuộc, “Thi ngôn chí”, Bà Bang Nhãn làm thơ cũng không ngoài mục đích đó. Cuối  thế kỷ XIX, đất nước ta bị thực dân Pháp xâm chiếm. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh mất nước, bà không khỏi đau buồn trước cảnh non sông gấm vóc của cha ông đã nằm trong tay giặc. Sự xuất hiện những bài thơ “Qua cửa  Hàn”, “Vịnh  Ngũ Hành Sơn” bộc lộ một tâm sự yêu nước thiết tha mà vô cùng kín đáo của bà đã đưa bà bước lên một vị trí xứng đáng trên văn đàn.

 

Bà Bang Nhãn tên thật là Lê Thị Liễu, quê làng Hà Nha, nay thuộc xã Đại Hồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, sinh năm 1853, mất năm 1927. Khi bà cất tiếng khóc chào đời vừa mới 5 năm thì thực dân Pháp đã nổ súng bắn vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lăng đất nước ta, từ đó cho đến suốt cuộc đời bà phải sống trong cảnh nước nhà bị chìm đắm trong nô lệ .

 

Chồng bà là ông Phan Quỳ, một người nổi tiếng hay chữ ở đất Quảng Nam, quê làng Gia Cốc, nay thuộc xã Đại Minh cùng huyện với bà . Ông Quỳ làm chức Bang tá, con đầu đặt tên Nhãn. Ngày trước người ta thường lấy tên con đầu để gọi cha mẹ nên ông Quỳ được gọi là ông Bang Nhãn, do đó bà có tên là bà Bang Nhãn. Lúc ông còn sống, chưa ai biết bà có tài làm thơ, chỉ sau khi ông qua đời bà mới thường hay xướng hoạ thơ văn với các danh sĩ đương thời và nổi tiếng khắp tỉnh.

 

Cũng như bà Huyện Thanh Quan, bà Bang Nhãn rất nổi tiếng về thơ quốc âm. Bà sáng tác nhiều nhưng đến nay chỉ còn lưu lại 2 bài,  đó là bài Qua cửa Hàn và bài Vịnh Ngũ Hành Sơn .

 

                                                                                 *

*      *

 

                    Quảng Nam Diên Phước Ngũ Hành Sơn .

Câu thơ cho thấy từ rất lâu, Ngũ Hành Sơn ở huyện Diên Phước tỉnh Quảng Nam, ngày nay thuộc thành phố Đà Nẵng đã trở thành biểu tượng văn hóa và  niềm tự hào của người dân Quảng Nam – Đà Nẵng.

 

 tam-su-nu-si-000

Toàn cảnh khu vực Ngũ Hành Sơn (Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ)   (Wikipedia)

 

NGŨ HÀNH SƠN là năm ngọn núi ngạo nghễ vươn lên giữa trời mây mà người dân xứ Quảng thường gọi bằng cái tên bình dị thân thương là núi Non Nước, nhưng trước đó còn có nhiều tên khác như: “Ngũ Uẩn Sơn; Ngũ Chỉ Sơn; Núi Cẩm Thạch; Núi Tam Thai”. Đầu thế kỷ thứ XIX vua Minh Mạng đặt tên là Ngũ Hành Sơn, tên đó còn giữ cho đến ngày nay.

Ngũ Hành sơn là một danh thắng của Quảng Nam - Đà Nẳng, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 7 km về phía đông nam, trên một bãi cát trắng mênh mông gần bờ biển, thuộc  làng Hóa Khuê, ấp Sơn Thủy, huyện Hòa Vang quận Ngũ Hành sơn.

Thuở xa xưa, vùng này là đất của Chiêm Thành, người Chiêm, thờ thần linh theo tín ngưỡng của họ, ngày nay còn lưu lại di tích qua những tượng thần bằng đá, những đền tháp và hình tượng khắc trong vách đá ở Chùa Linh Ứng, trong động Huyền Không. Thời nhà Trần, năm 1306 sự hy sinh của công chúa Huyền Trân đã mang về cho đất nước “hai châu Ô, Rý vuông ngàn dặm” mở rộng lãnh thổ đến bờ bắc sông Thu Bồn.

Theo truyền thuyết vào đời Hậu Lê, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã khám phá ra Ngũ Hành Sơn, từ đó Ngũ Hành  sơn mới thuộc về người Việt.

Thật ra, quần thể núi Non Nước có sáu ngọn là Kim sơn, Mộc sơn, Thuỷ sơn, Thổ sơn, riêng Hoả sơn có hai ngọn nằm kề nhau là Âm Hoả sơn và Dương Hoả sơn. Đó là những núi đá vôi đã biến thành cẩm thạch, với một độ cao vừa phải và những hình dáng vô cùng kỳ thú. Nơi đây phong cảnh hữu tình, vừa có núi, sông, hang, động, biển cả, vừa có chùa chiền thanh u,  tĩnh mịch, quả là một tặng phẩm vô giá của thiên nhiên .

 

Theo nhà nghiên cứu Dịch học Nguyễn Thiếu Dũng, Ngũ Hành Sơn (số 5) nằm ở trung độ ( trung cung) Việt Nam cùng với Ba Vì (số 3), Tam Đảo (số 3) phía Bắc và Thất sơn (số 7) phía Nam hợp thành tổng số 15, số của Lạc Thư, là các ngọn núi địa linh tú khí mang đầy chất tâm linh huyền nhiệm của Việt Nam. Trên bản đồ Việt Nam nếu lấy Ngũ Hành Sơn làm tâm điểm vẽ một vòng tròn bao gồm từ đỉnh đầu đất nước Đồng Văn đến chót mũi Cà Mau sẽ thấy Việt Nam có dạng một Thái cực đồ mà đường chữ S chia đất liền và biển cả thành hai phần âm dương lưỡng hợp, thật đúng là đất linh kiệt

 

Từ xưa Ngũ Hành Sơn đã có sức hấp dẫn nhiều người, từ các bậc vương giả như Quốc chúa Nguyễn Phước Chu, vua Minh Mệnh đến các thi nhân, du khách trong và ngoài nước đều đã đến vãn cảnh và để lại những áng thơ văn bất hủ. Cảm xúc trước vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng của thắng cảnh quê nhà,  nữ sĩ Bang Nhãn cũng đã ghi lại những rung động chân thành của mình bằng những câu thơ trang nhã, đài các mà mang đậm sắc thái Quảng Nam

             

            Vịnh Ngũ Hành Sơn

 

          Cảnh trí nào hơn cảnh trí này ,

          Bồng Lai tiên cảnh hẳn là đây.

          Núi chen sắc đá pha màu gấm,

          Chùa nức hơi hương khói lộn mây.

          Ngư phủ gác cần ngơi mặt nước,

          Tiều phu chống búa tựa lưng cây.

          Nhìn xem phong cảnh ưa lòng khách,

          Vút mắt Trường Sơn ác xế tây.

 

Mở đầu bài thơ, nữ sĩ hết lời ca ngợi Ngũ Hành Sơn, một cảnh trí có giá trị độc đáo không nơi nào sánh bằng:

 

                                Cảnh trí nào hơn cảnh trí này,

                                Bồng lai tiên cảnh hẳn là đây.

 

Khẳng định Ngũ Hành Sơn là tiên cảnh, bà Bang Nhãn không chỉ muốn nói nơi đây là chốn danh lam, thắng cảnh mà còn nhấn mạnh đến bản chất của cảnh vật là tĩnh mịch, thanh khiết vượt lên trên những ràng buộc, khổ đau của trần thế. Cõi tiên là biểu tượng của những gì đẹp đẽ, sung sướng, của hạnh phúc vĩnh hằng mà con người luôn mơ ước. Nói đến cõi tiên là nói đến một thế giới hoàn hão khác hẵn thế giới trần tục mà con người đang sống, một thế giới tuyệt vời chỉ tồn tại trong cổ tích và trong mộng ước của dân gian.

Bước đến Ngũ Hành Sơn, du khách như đặt chân vào chốn bồng lai, câu thơ đã khắc sâu một ấn tượng về Ngũ Hành Sơn tuyệt đẹp, đẹp một cách huyền ảo, nửa hư nửa thực như cõi tiên.

 

Nguyễn Trãi khi viếng núi Dục Thuý ( còn có tên là núi Non Nước ), ở  tỉnh Ninh Bình,  cũng đã cho rằng Dục Thuý là :

 

                                Tiên cảnh truỵ trần gian “

                                  ( Cảnh tiên rơi cõi tục )

 

để ca ngợi vẻ đẹp kỳ ảo của núi Dục Thuý mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Đối với Nguyễn Trãi, Dục Thuý sơn là tiên cảnh thì bà Bang Nhãn cũng cảm nhận như thế về Ngũ Hành Sơn:

 

                             Bồng lai tiên cảnh hẳn là đây

 

Hai câu thực miêu tả Ngũ Hành Sơn, bà Bang Nhãn đã làm nổi bật vẻ đẹp của những núi đá cẩm thạch long lanh tựa gấm :

 

                              Núi chen sắc đá  pha màu gấm

 

Mà cẩm thạch tại đây cũng rất độc đáo, mỗi hòn núi có một màu sắc riêng: Thuỷ sơn màu hồng, Mộc sơn màu trắng, Hoả sơn màu đỏ, Kim sơn màu thuỷ mặc và ở Thổ Sơn màu nâu chứ không lẫn lộn nhiều màu như cẩm thạch ở Hương sơn :

 

                              “ Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”

                                (Chu Mạnh Trinh - Hương Sơn phong cảnh )

 

Đứng trên đỉnh cao của núi, du khách có thể ngắm nhìn Ngũ Hành Sơn đổi màu theo sắc nắng. Đó là sự kỳ ảo hiếm có ở bất cứ nơi nào.

Quần thể Ngũ Hành Sơn không chỉ đẹp về cảnh trí thiên nhiên mà nơi đây là đất thiêng của xứ Quảng, với nhiều ngôi chùa cổ, những bia đá, tượng Phật được xây dựng từ đầu thế kỷ XVII, một thế giới chùa chiền, hang động, khói hương nghi ngút tạo nên một khung cảnh thiêng liêng, thoát tục khiến du khách khi bước chân vào là có thể trút bỏ mọi ưu tư, phiền muộn của trần gian để đắm mình trong không khí tĩnh lặng, huyền ảo, lung linh, của bầu trời cảnh Phật :

                              Chùa nức hơi hương khói lộn mây

                                Ngư phủ gác cần ngơi mặt nước

                                Tiều phu chống búa tựa lưng cây "

 

 tam-su-nu-si-001

           Ngũ Hành Sơn huyền ảo   (vietbao.vn)

 

Từ những rung cảm trước vẻ đẹp của Ngũ Hành Sơn, bà Bang Nhãn lại ưu tư trước hiện tình của đất nước :

 

                         Nhìn xem phong cảnh ưa lòng khách

                           Vút mắt Trường Sơn ác xế tây”

 

Câu thơ cuối mới đọc qua chỉ là câu tả cảnh Ngũ Hành Sơn về chiều, khách say sưa ngắm cảnh mà quên cả thời gian, chợt nhìn lên đỉnh núi mặt trời đã xế về tây. Nhưng suy ngẫm kỹ, ta mới thấy ngoài nghĩa tả thực ra, nó còn ẩn chứa một nỗi niềm tâm sự của nhà thơ : phong cảnh nước nhà đẹp như thế mà nay đã vào tay thực dân Pháp “ác xế Tây” đau đớn biết chừng nào ! Thật là một tiếng kêu xé lòng phát ra từ trái tim nồng nàn yêu nước, tiếng kêu bi thương vút tận trời xanh làm rung động lòng người, tạo nên cái hồn của bài thơ khiến người ta phải tỉnh mộng mà quay về với thực trạng đau thương của tổ quốc. Cụm từ  Ác xế tây” chính là nhãn tự tạo nên linh hồn, sức sống và giá trị của bài thơ. Câu kết như một viên kim cương toả sáng, tiếc thay khi truyền tụng vì sợ động đến thời cuộc khiến bài thơ bị cấm, nên có người đã sửa câu kết thành :

                             Khen bấy thợ trời khéo đắp xây

 

làm giảm đi rất nhiều giá trị của bài thơ đồng thời hủy hoại cái hồn của bài thơ.

 

Bài thơ sử dụng những thi ảnh ước lệ quen thuộc “bồng lai, ngư phủ, tiều phu” bên cạnh những cụm từ thuần Việt “núi chen sắc đá, chùa nức hơi hương, gác cần, chống búa, ưa, thợ trời..” khiến cho ngôn ngữ thơ trang nhã, đài các quyện lẫn với chất nôm na rất Quảng Nam tạo cho thơ của bà một sắc thái riêng.

 

Với một tâm hồn dạt dào cảm xúc, một trái tim chan chứa yêu thương nữ sĩ Bang Nhãn đã để lại một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất hay, hiếm thấy trong làng thơ quốc âm  nên đương thời bài Vịnh Ngũ Hành Sơn đã được truyền tụng khắp nơi từ Nam chí Bắc.

Trọn cuộc đời sống trong cảnh đất nước bị xâm lăng, bà luôn canh cánh bên lòng nỗi đau mất nước, cho dù khi “Qua cửa Hàn” ngựa xe nhộn nhịp hay lúc say sưa thưởng ngoạn thắng cảnh của non sông bà vẫn không quên được quê hương đang rơi vào  tay thực dân Pháp .

 

  CHÂU YẾN LOAN

                                                           

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/09/2020(Xem: 5758)
Trước, lúc mà Cạp mỗ ngẫu hứng chĩa một ngón tay vào ngoáy rốn pho tượng ngài Bố Đại Hòa Thượng (được cho là hóa thân của đức Di Lặc Tôn Phật) ở một ngôi chùa miền quê thanh vắng, để cho người bạn chụp ảnh lưu niệm, xem lại ngay trên máy, liền bật cười và quất ngay mấy câu lục bát: Ta cười suốt tháng quanh năm Cười ba vạn kiếp số hằng hà sa Cù léc rốn, xức cù là? Dụng công chi rứa bởi ta vốn cười!
04/09/2020(Xem: 6500)
' Cha là Phật giữa đường trần Mẹ là Phật giữa vạn lần ngược xuôi.. Đêm đêm thắp ngọn đèn trời Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con..''
04/09/2020(Xem: 6532)
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật! Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni! Kính thưa quý vị Phật tử! Nhân mùa Vu-lan năm 2020, con xin đảnh lễ, kính chúc chư Tôn đức Tăng Ni thêm một tuổi đạo, thành công hơn nữa trong các Phật sự, nhằm mang lại lợi ích và phúc lạc cho nhân sinh. Con kính chúc các bậc làm cha mẹ thêm một tuổi đời, làm nền tảng đạo đức và hạnh phúc cho con cháu trong gia đình và họ tộc. Con kính chúc tất cả các anh chị, các cháu thanh thiếu niên, đề cao đạo lý hiếu kính cha mẹ ông bà, thể hiện tinh thần tự lập, xa lánh các thói hư tật xấu, các thói quen nghiện ngập, hưởng thụ ăn chơi, để sống một cuộc đời hữu ích, và làm cho cha mẹ được hạnh phúc hiện tiền. Nhờ đó, có một tương lai tươi sáng.
04/09/2020(Xem: 8345)
Mật hạnh là pháp môn bất nhị tăng thêm phẩm hạnh, viên mãn đạo đức. Ví như ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh của Đức Phật; mỗi ngày cầm bình bát khất thực, rửa chân ngồi thiền, hành hóa thuyết pháp, khiến chúng sinh nhập Phật tri kiến, chính là mật hạnh; lại ví như La-hầu-la (Rāhula) sám hối sửa lỗi, giữ vững thanh tịnh giới hạnh, trở thành đệ nhất mật hạnh trong đệ tử Phật; Đại Ca-diếp trú ở xứ Lan-nhã, tịch tịnh thiểu dục, trên hội Linh Sơn1 diệu khế chân như pháp tính, cũng là mật hạnh; Tu-bồ-đề (Subhūti) quán không nghênh Phật, cũng là mật hạnh. Những việc làm nghĩa tình của người xưa như chia cháo cứu đói, xây cầu làm đường, đào giếng lấy nước, thắp đèn dâng trà, bố thí quan tài cho người chết, cứu trợ giúp đỡ, đều là mật hạnh gieo trồng phước đức. Gọi là “lân nga bất điểm đăng, vi thử thường lưu phạn” (vì thương những con thiêu thân không đốt đèn vào ban đêm, vì sợ chuột không có thức ăn thường để lại một ít thức ăn), tức là khắc họa (miêu tả) tốt nhất về lòng từ bi rộng khắ
02/09/2020(Xem: 6369)
Á hậu Trương Thị May lễ chùa, phóng sinh mùa Vu lan Chị em Á hậu Trương Thị May cùng mẹ và bà ngoại mặc đồ lam, áo dài đi lễ chùa, phóng sinh dịp Vu Lan.
02/09/2020(Xem: 6945)
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã phát ngôn kiên quyết kêu gọi về việc “Hán hóa” (Sinicization,漢化) Phật giáo Tây Tạng. Ảnh: hindustantimes.com Theo truyền thông quốc gia Trung Hoa đưa tin hôm thứ Bảy, ngày 29 tháng 8 vừa qua, Ngài Chủ tịch Tập Cận Bình đã phát ngôn kiên quyết kêu gọi về việc “Hán hóa” (Sinicization,漢化) Phật giáo Tây Tạng tại Tây Tạng.
30/08/2020(Xem: 7219)
Tựa bài không có gì mời gọi người đọc, nên có lẽ, chỉ vị nào đang rảnh rang lắm mới thử lướt xuống xem, viết cái gì vậy? Hay chỉ là thực đơn của tiệm bánh nào bay lạc vào? Xin nghiêm túc thưa, đây là lời mở đầu một lần giảng pháp của giảng sư, trong một mùa An Cư Kiết Hạ tại Nam Cali.
30/08/2020(Xem: 7581)
Ngày xưa, sau khi Đức Phật chứng Đạo, tại sao Ngài không mở trường Thiền để có thể dạy hàng ngàn, hàng vạn người cùng một lúc? Ngược lại, Ngài chỉ vân du từ nơi này sang nơi khác, tùy căn cơ khai thị cho những người hữu duyên Ngài gặp trên đường? Đơn giản vì trình độ, hoàn cảnh và cơ địa mỗi người một khác, nên đức Phật ngay nơi mỗi người khai thị pháp mà người đó đang trải nghiệm, và vì vậy chỉ người đó mới thật sự biết đức Phật đang chỉ dạy điều gì, người khác có nghe hay đọc lại kinh điển tường thuật thì cũng chỉ để tham khảo hay suy luận mà thôi.
30/08/2020(Xem: 6693)
Khúc đàn Khổng-Vọng-Vi là tiếng khóc của Đức Khổng Tử, tiếc thương người đệ tử thân yêu Nhan Hồi, mệnh yểu mà chết sớm khi tuổi còn thanh xuân. Tiếng khóc bộc lộ tình thầy trò cực kỳ thắm thiết, cực kỳ cảm động đó đã chạm vào những giây tơ mà bật lên âm thanh, truyền cảm tới thẳm sâu tâm linh hậu thế.
29/08/2020(Xem: 7221)
Có một truyền thuyết kỳ lạ, nhưng có lẽ ít được biết đến bởi người Mông Cổ về một con voi xanh, đã góp phần xây dựng một Bảo tháp Phật giáo khổng lồ tại Ấn Độ cổ đại. Con voi lao động cả đời để xây dựng công trình Phật giáo, nó làm việc đến kiệt sức. Tuy nhiên, những nỗ lực của nó vẫn bị bỏ qua, và ngay cả vị Lạt Ma cấp cao đến cúng dường Bảo tháp cũng quên cảm ơn nó. Con voi vô cùng tức giận và phát lời thề rằng, sẽ phá hủy Phật giáo ba lần trong những lần tái sinh sau đó của nó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]