Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Hợi gỏi cúi/heo (phần 5B)

11/12/201820:16(Xem: 7863)
Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Hợi gỏi cúi/heo (phần 5B)

Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Hợi gỏi cúi/heo (phần 5B)

Nguyễn Cung Thông[1]

 

Bài viết này bàn về khả năng tên gọi 12 con giáp có gốc là tiếng Việt cổ, chú trọng đến chi thứ 12 là Hợi, đặc biệt cho năm Kỷ Hợi sắp đến (5/2/2019). Bài này đánh số là 5B vì là phần tiếp theo của các bài 5, 5A cùng một chủ đề - các bài 5 và 5A đã được viết cách đây nhiều năm. Trong thời gian soạn bài 5B này để chuẩn bị cho buổi phỏng vấn của đài SBS radio sắp đến, người viết có tra cứu mạng TQ về sinh tiêu 生肖 để kiểm lại các thông tin[2] mới nhất cho bài viết. Trang mạng TQ viết rất cẩn thận và chi tiết, bàn về nguồn gốc của 12 con giáp có đưa ra các khả năng (1) hiện diện từ thời cổ đại ở TQ (2) nhập vào từ Phật giáo đời Đường (3) từ dân du mục ở phương Bắc TQ (học giả Triệu Dực đời Thanh) (4) nhập vào từ 12 cung hoàng đạo của phương Tây (Babylon) theo học giả Quách Mạt Nhược (1892-1978) - không thấy tài liệu nào khẳng định 12 con giáp là đặc sản của TQ và cũng không nhắc đến nguồn gốc phương Nam trong trang mạng TQ này. Một sự kiện đáng nhắc ở đây là ở Sydney (Úc), các chánh phủ địa phương đã bắt đầu đổi tên gọi Tết Trung Quốc (Chinese New Year) thành Tết Âm Lịch (Lunar New Year) sau một thời gian tìm hiểu các kiến nghị để thay đổi: một lí do đơn giản là về vấn đề nguồn gốc của Tết Âm Lịch hay 12 con giáp không ai dám khẳng định là của thuộc bản quyền của người hay văn hoá TQ[3]. Để cho liên tục và rõ ý[4], người đọc nên tham khảo thêm loạt bài viết về "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp" như "Mão Mẹo mèo" có 3 bài viết đánh số 4, 4A, 4B trên các trang mạng (Internet) công cộng như https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=20674 hay http://chimvie3.free.fr/47/index47.htm …v.v… Các chữ viết tắt trong bài là NCT (Nguyễn Cung Thông), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị), HV (Hán Việt), VN (Việt Nam), TQ (Trung Quốc), P (tiếng Pháp), A (tiếng Anh), L (tiếng La Tinh). Không nên nhầm lẫn các số đứng sau một âm tiết (chỉ thanh điệu) so với phụ chú.

1. Các cách đọc chữ Hợi

1.1 Chữ hợi 亥 (thanh mẫu nạp 匣, vận mẫu hai 咍 thượng thanh/khứ thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

胡改切 hồ cải thiết (TVGT, ĐV, QV, CV, TVi, LTCN)

向改切 hướng cải thiết (NT)

下改切,音頦 hạ cải thiết, âm hài (TV, LT, VH)

TNAV ghi vận mẫu 皆來 giai lai (khứ thanh)

CV ghi cùng vần/thượng thanh 亥 劾 侅 (hợi *hặc))

CV cũng ghi cùng vần/khứ thanh 害 妎 劾 亥 (hại hợi *hặc)

許已切,音喜 hứa dĩ thiết, âm hỉ (VB, TVi)

下蓋切 hạ cái thiết (CV, TVi) ...v.v...

Giọng BK bây giờ là hài so với giọng Quảng Đông hoi6 và các giọng Mân Nam 客家话: [海陆丰腔] hoi6 [陆丰腔] hoi6 [梅县腔] hoi5 [东莞腔] hoi3 [客英字典] hoi5 [客语拼音字汇] hoi4 [台湾四县腔] hoi5 [宝安腔] hoi3 潮州话:hai6 (hãi), giọng Mân Nam/Đài Loan hai7, tiếng Nhật gai kai và tiếng Hàn hay.

Để ý khả năng có ba thanh điệu của Hợi: thượng thanh (đọc như hãi), khứ thanh và bình thanh (đọc như hài) phù hợp với các dạng cúi (heo cúi, cá cúi), cội hay cỗi (nguồn cội, cội rễ) và cùi (cùi bắp, cùi tay).

 

Hoi-goi-cui-phan-5b-000

    Giáp cốt văn                 Kim Văn                     Tiểu Triện                  Khải Thư

 

 Hoi-goi-cui-phan-5b-001

Giáp cốt văn                 Kim Văn                     Tiểu Triện                    Khải Thư

 

Câu nói từ xưa "Chữ tác (作) đánh chữ tộ (祚), chữ ngộ (遇) thành chữ quá (過)" nói lên khả năng viết nhầm vì hình dạng chữ giống nhau, cũng như thành ngữ HV lỗ ngư hợi thỉ 鲁鱼亥豕. Thật ra vấn đề khá oái ăm vì thỉ và hợi từng là một chữ tượng hình con lợn (chứ chẳng phải nhầm lẫn gì - xem các hình chụp bên trên từ trang http://www.zdic.net/z/24/zy/8C55.htm hay trang http://hanziyuan.net/#%E8%B1%95 chẳng hạn), như các tài liệu sau đây minh chứng:

 

豕與亥相似 <呂氏春秋·慎行論>

Thỉ dữ hợi tương tự < Lã Thị Xuân Thu· Thận hành luận> - Lã Thị Xuân Thu do Lã Bất Vi soạn vào đời Tần (vào khoảng 239 TCN)

 

亥, 豕也 <論衡·物勢>

Hợi, thỉ dã <Luận Hành. Vật thể> - Luận Hành soạn bởi Vương Sung thời Đông Hán (vào khoảng 80 SCN)

 

亥即豕, 故曰首曰身也 <左傳襄公三十年》

Hợi tức thỉ, cố viết thủ viết thân dã <Tả Truyện. Tương công tam thập niên> - Tả Truyện soạn thời Chiến Quốc (vào khoảng trước năm 389 TCN)

 

說文解字: <春秋傳>曰:“亥有二首六身。”凡亥之屬皆從亥。古文亥爲豕,與豕衕

Thuyết Văn Giải Tự: < Xuân Thu Truyện> viết:“hợi hữu nhị thủ lục thân。” phàm hợi chi chúc giai tòng hợi. cổ văn hợi vi thỉ, dữ thỉ đồng - Thuyết Văn Giải Tự do Hứa Thận soạn (khoảng 121 SCN)

1.2 Dựa vào âm HV/Nhật/Hàn và các phương ngữ TQ, một dạng âm cổ phục nguyên của Hợi là *ɣəj hay *kəj mà tiếng Việt còn bảo lưu dạng này qua các cách dùng heo cúi, cá cúi - cúi là lợn/heo (tiếng Mường Bi) so với tiếng Ruc *ku:l4, Maleng Brô kù:r, Giarai kuai, Sedang kuur. Như vậy là ta có thể liên hệ trực tiếp âm Hợi và cúi (đều chỉ loài lợn), ngoài ra còn các dữ kiện về Giáp Cốt Văn bên trên cho thấy chữ Hợi tượng hình (hình loài lợn). Ngoài ra, âm cổ *ɣəj còn để lại vài vết tích như ít người biết chữ Hợi 亥 còn có nghĩa là rễ cỏ[5] (TVGT và NT ghi nghĩa của Hợi là 荄也 cai dã - xem hình chụp bên dưới) hay là cai 荄, tiếng Việt còn bảo lưu các dạng cổ là cùi[6], cội (cd. cây có cội, nước/sông có nguồn). Chữ cai 荄 (rễ cỏ) là chữ hiếm với tần số dùng 41 trên 430747376 (thanh mẫu kiến 見 vận mẫu giai 皆 bình thanh, khai khẩu nhị đẳng/nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

古哀切 cổ ai thiết (TVGT, ĐV, LT, TTTH)

古諧切 cổ hài thiết (TVGT)

古諧切 cổ hài thiết (LT)

古來反 cổ lai phản (NKVT 五經文字)

皆該二音 giai khai nhị âm (LKTG, TNTTĐTA 精嚴新集大藏音)

居諧切 cư hài thiết (TV, CV)

柯開乀 kha khai phật (TNTTĐTA 精嚴新集大藏音)

柯開切,音該 kha khai thiết, âm cai (TV, VH)

TNAV ghi vận bộ 皆來 giai lai (dương bình)

CV ghi cùng vần/bình thanh 皆 偕 階 堦 荄 核 䕸 湝 痎 喈 楷 街 (giai cai *hạch)

CV cũng ghi cùng vần/bình thanh 該 晐 賅 剴 祴 侅 垓 畡 胲 頦 陔 峐 荄 絯 (cai)

歌開切,音該 ca khai thiết, âm cai (TVi, CTT)

居諧切, 音皆 cư hài thiết, âm giai (TVi)

居支切, 音箕 cư chi thiết, âm ki (TViB) ...v.v...

Giọng BK bây giờ là gāi jiē so với giọng Quảng Đông goi1 và các giọng Mân Nam 客家话: [台湾四县腔] goi1 [客英字典] goi1 [海陆丰腔] goi1 [梅县腔] goi1 潮州话:gai1, tiếng Nhật kai.

1.3 Chữ 䝅 rất hiếm (bình thanh, Unicode 4745) có các cách đọc theo phiên thiết

呼恢切 hô khôi thiết (NT) - NT ghi nghĩa của hôi 䝅 là thỉ dã 豕也 (cũng như TV, TVi).

呼回切,音灰 hô hồi thiết, âm hôi (TV, LT, TVi) ...v.v...

Một dạng âm cổ phục nguyên của hôi 䝅 là *ɣəj rất gần với dạng cúi tiếng Việt và cùng một nghĩa (chỉ con lợn). Một điểm đáng nhắc lại ở đây là nét nghĩa phát sinh từ hôi là lợn đào xới đất lên như lời chú thêm vào ở TV.

 Hoi-goi-cui-phan-5b-002

TVGT  
Hoi-goi-cui-phan-5b-003
  NT
  
Hoi-goi-cui-phan-5b-004    
  NT    
Hoi-goi-cui-phan-5b-005 
    TV

 

1.4 Chữ hiếm hài/cai/hợi 豥 (Unicode 8C65) với tần số dùng là 10 trên 237243358, có các cách đọc theo phiên thiết

工開反 công khai phản (NKVT 五經文字)

古來戸來二反 cổ lai hộ lai nhị phản (LKTG)

胡來古來二切 hồ lai cổ lai nhị thiết (NT, TTTH)

古哀切 cổ ai thiết (QV)

戸來切 hộ lai thiết (QV)

何開切,音孩 hà khai thiết, âm hài (TV, LT)

柯開切,音該 kha khai thiết, âm cai (TV, LT)

魚開切,音皚 ngư khai thiết, âm ngai (TV, LT)

下楷切,音駭 hạ giai thiết, âm hãi (TV, LT, VH, CV, TVi)

於開切 ư giai thiết (TV)

CV ghi cùng vần/thượng thanh 駭 駴 絯 豥 (hãi)

呼買切, 音駭 hô mãi thiết, âm hãi (CTT) ...v.v...

Giọng BK bây giờ là gāi so với giọng Mân Nam 潮州话:hai5. Một dạng âm cổ phục nguyên của hài/cai là *ɣəj rất gần với dạng cúi tiếng Việt. Một điểm đáng nhắc ở đây là nét nghĩa của hài/cai 豥 là loài lợn có bốn móng chân trắng có thể phát sinh từ loài lợn rất hiếm gặp (ở TQ thời cổ đại), hay một loại "hàng nhập" vậy.
Hoi-goi-cui-phan-5b-006

NT               
Hoi-goi-cui-phan-5b-007  LKTG

 

2. Cá cúi, heo cúi

Một dạng chữ Nôm cúi là dùng cối (hội) HV 會 hay 檜 (so với âm cổ phục nguyên *ɣəj):"Hà đồn cúi nước gặp người lội theo" (Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa, 58b), "Bằng chưng giết cúi dê, máu chảy suốt hết đất" (Phật Thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, 17b). Tới thời Béhaine (1772/1773) và Taberd (1838) thì cúi chữ Nôm được viết là 𨆝 (bộ túc + cối HV, chỉ hành động cúi xuống, nét nghĩa chính trong tiếng Việt hiện nay) và chỉ còn dùng trong các từ kép cá cúi[7], heo cúi - xem hình chụp bên dưới:

 

 Hoi-goi-cui-phan-5b-008

Hoi-goi-cui-phan-5b-009

 

Cá cúi (Béhaine/Taberd 1772/1773-1838) là porcus marinus; heo cúiporcus. Porcus marinus/L dịch ra tiếng Việt là "heo biển". Cá cúi là "thứ cá biển nhiều mỡ như heo, cũng gọi là heo biển, thầy thuốc Annam hay dùng mỡ nó mà làm thuốc trái, thuốc ghẻ; da đó cùng dùng một thế, hoặc làm đồ ăn" trích ĐNQATV trang 201.

Trong cuốn "Dictionnaire annamite-chinois-français" (tự điển Việt Trung Pháp), học giả Gustave Hue (1937) còn ghi lại cách dùng "con gỏi" để chỉ lợn con[8] (heo con ~ porcelet/P, piglet/A). Gỏi[9] là một dạng biến âm của cúi, hỗ trợ cho dạng âm cổ phục nguyên *ɣəj hay *kəj.

Tóm lại, tiếng Trung (Quốc) có nhiều từ chỉ loài lợn như trư 豬 (tần suất 25297 trên 369369126) 猪 (tần suất 12684 trên 258852642), thỉ 豕 (tần suất 1942 trên 432067182), hi 豨 (tần suất 490 trên 430747376), trệ 彘, đồn 豚, gia 豭, hào 豪 ...v.v... Nhưng không thấy còn dùng dạng *ɣəj hay *kəj, âm cổ phục nguyên của Hợi 亥, hôi 䝅 và hài/cai/hợi 豥. Điều này cũng dễ hiểu vì sau khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất TQ và văn tự, và sau khi tiêu diệt các nước chư hầu, mạch chính của văn hoá Hán tộc bắt đầu khởi sắc so với ảnh hưởng từ phương Nam[10] đúng theo ý định của nhóm cầm quyền. Dựa vào thư tịch cổ, các phương ngữ cùng hệ thống âm HV: ta có cơ sở giải thích chữ Hợi có nghĩa là con lợn/heo vào thời tiền Hán (td. Giáp cốt văn - chữ tượng hình con lợn), cũng như âm cổ *ɣəj hay *kəj chính là dạng cúigỏi còn bảo lưu[11] trong tiếng Mường (Bi) và Việt. Do đó, ta cần phải đặt lại vấn đề nguồn gốc phi-Hán của tên chi thứ 12 (Hợi), và chỉ có thể dùng nhánh ngôn ngữ Việt Mường (< họ Nam Á) thì ta mới cảm thông được tại sao Hợi lại có biểu tượng là loài lợn/heo. Ngoài ra tiếng Việt không cần phải dùng từ ghép[12] như tiếng TQ - như 亥猪 Hợi trư (Hợi - lợn/heo) - để nhắc nhở dân chúng TQ về loài động vật tương ứng với chi Hợi - so với một dạng âm cổ của Hợi là cúi[13] vẫn còn hiện diện trong tiếng Việt và Mường (heo cúi, cá cúi). Một trường hợp khác dễ nhận ra hơn là chi Mão hay Mẹo: đối với người Việt thì biết ngay là chi chỉ con mèo (của VN), còn đối với người TQ thì phải dùng từ ghép 卯兔 Mão thố để nhắc đến loài thỏ[14], động vật biểu tượng chi Mão của văn hoá truyền thống của Hán tộc.

3. Tài liệu tham khảo chính và phê bình thêm

1) Pigneau de Béhaine (1772/1773) - Bá Đa Lộc Bỉ Nhu "Dictionarium Annamitico-Latinum" Dịch và giới thiệu bởi Nguyễn Khắc Xuyên, NXB Trẻ (Thành Phố HCM - 1999).

                                    (1774/Quảng Đông à Địa phận Đàng Trong tái bản năm 1837) "Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ" 聖教要理國語 viết bằng chữ Nôm theo dạng Hỏi-Thưa. Y Doãn Ninh/Lê Bảo Tịnh phiên âm và chú giải, La Vang Tùng Thư xuất bản (Mỹ).

2) Huỳnh Tịnh Của (1895-1896) "Đại Nam Quấc Âm Tự Vị" Tome I, II - Imprimerie REY, CURIOL & Cie, 4 rue d'Adran (SaiGon).

3) Michel Ferlus (2004) "Le cycle des douze animaux" histoire d'un contact ancien entre Vietnam et Cambodge" The Sixth International Symposium on Pan-Asiatic Linguistics (HaNoi - Vietnam November 25-26, 2004).

                                    (2013) “The sexagesimals cycle, from China to Southeast Asia” (translated by Alexis Michaud) - The 23rd Annual Conference of the Southeast Asian Linguistics Society – May 29-31, 2013 – Chulalongkorn University, Bangkok (Thailand).

4) Nguyễn Quang Hồng (2015) "Tự điển chữ Nôm dẫn giải" Tập 1 và 2 - NXB Khoa Học Xã Hội/Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm (Hà Nội).

5) Nguyễn Văn Khang (Chủ biên), Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành (2002) "Từ điển Mường Việt" NXB Văn Hóa Dân Tộc (Hà Nội).

6) Vương Lộc (2002) "Từ điển từ cổ" NXB Đà Nẵng - Trung Tâm Từ Điển Học (Hà Nội).

7) Hoàng Thị Ngọ (1999) "Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh" NXB Khoa Học Xã Hội (Hà Nội).

                                    (1999) "Phật Thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh - chữ Nôm và tiếng Việt" NXB Khoa Học Xã Hội - Hà Nội.

8) Alexandre de Rhodes (1651) "Phép Giảng Tám Ngày" - Tủ Sách Đại Kết in lại từ Tinh Việt Văn Đoàn (1961 - Sài Gòn) với phần giới thiệu của tác giả Nguyễn Khắc Xuyên.

                                     (1651) “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố HCM (1991).

                                    “Tường Trình về Đàng Trong 1645” bản dịch của Hồng Nhuệ, NXB Ánh Sáng Publishing, Escondido (California/Mỹ, 1994?).

                                    "Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm 1646" dịch giả Nguyễn Khắc Xuyên - Tủ sách Đại Kết, Thành phố HCM (1994).

9) Nguyễn Ngọc San/Đinh Văn Thiện (2001) "Từ điển từ Việt cổ" NXB Văn Hóa Thông Tin (Hà Nội).

10) Nguyễn Cung Thông (2009) "Người tìm nguồn tên 12 con giáp" có thể đọc toàn bài trang https://www.tienphong.vn/cong-nghe-khoa-hoc/nguoi-tim-nguon-ten-12-con-giap-151678.tpo

                                        (2011) "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Hợi gỏi cúi/heo (phần 5A)" có thể đọc toàn bài trên trang này chẳng hạn https://ngonnguhoc.org/index.php?option=com_content&view=article&id=647:ngun-gc-vit-nam-ca-12-con-giap-hi-gi-cuiheo&catid=29:bai-nghien-cuu&Itemid=39 …v.v…

                                        (2007) Các buổi nói chuyện về cùng chủ đề trên đài SBS Radio, được phát thanh trên toàn nước Úc - xem/nghe từ trang mạng này chẳng hạn http://www.dunglac.info/upload/book/ngcthong1-f110791290.mp3 ...v.v...



[1] Nghiên cứu tiếng Việt độc lập ở Melbourne (Úc) – email [email protected]

[2] Xem trang mạng này chẳng hạn https://zh.wikipedia.org/wiki/%E7%94%9F%E8%82%96#cite_note-%E7%9D%A1%E8%99%8E%E5%9C%B0%E7%A7%A6%E7%B0%A1%E8%88%87%E6%94%BE%E9%A6%AC%E7%81%98%E7%A7%A6%E7%B0%A1-4 . Điều đáng chú ý là năm nay (2018) một cuốn sách vừa xuất hiện "Từ thập nhị chi đến 12 con giáp" của tác giả An Chi (người Việt) lại "khẳng định 12 con giáp là đặc sản của nền văn minh Trung Hoa chứ không hề vay mượn từ bất kỳ một ngôn ngữ nào khác" - theo lời NXB Tổng Hợp Thành Phố HCM.

[4] Loạt nài "NGUỒN GỐC VIỆT (NAM) CỦA TÊN 12 CON GIÁP - phần 1 và 2" bàn về tên 12 con giáp (tổng quát), phần 3 đến 14 bàn về từng chi một -- xem trang này http://web.hanu.vn/vnh/mod/forum/discuss.php?d=2335 hay  http://www.dunglac.info/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=81&ia=912 …v.v…

[5] Theo một cách giải thích từ chu kì hình thành cây cối: Hợi là giai đoạn huỷ diệt dương khí, âm khí trở nên cực thịnh, cây cỏ chết đi và hạt dưới đất nảy mầm thành rễ để bắt đầu sinh trưởng (bắt đầu một chu kì mới).

[6] cội cây (~gốc cây) khác với thân cây (có thể coi cội là phần dưới cùng của thân - td. lá rụng về cội): đây là cách dùng khác với tiếng Anh trunk (thân cây, cội cây) và tiếng Pháp tronc (thân cây, cội cây).

[7] Cá cúiporcus marinus, theo cách giải thích của Royal Society of London, trong cuốn "Philosophical  transactions from their commencement, in 1665, to the year 1800" Volume 1 - from 1665 to 1672 - in năm 1809 (London).

 

[8] Tuy nhiên, học giả Génibrel trong "Dictionnaire annamite français" (1898) ghi nghĩa của "con gỏi" là lợn nhỏ vừa vừa (cochon de moyenne taille/P).

[9] Gỏi thường biết đến là thịt cá sống trộn với giấm và rau cải (gỏi cá, gỏi cá sống), nhưng cũng có thể dùng thịt lợn/bò sống (nem chua) ...v.v...

[10] Tần Thuỷ Hoàng không ngần ngại đốt sách hay tiêu huỷ triệt để (td. phần thư khanh nho) các nền văn hoá khác để có một TQ thống nhất và dễ cai trị. Ngoài ra, từ miền Nam TQ đã có nhiều đợt di thiên về phương Nam và quá trình hợp chủng cũng làm ảnh hưởng TH càng ngày càng lấn át văn hoá bản địa (td. 12 con giáp càng xa rời đời sống nông nghiệp và trở thành bổn mạng trong cuộc đời) - xem kết quả mới nhất về ADN trong báo cáo này (17/5/2018) chẳng hạn https://www.sciencenews.org/article/ancient-chinese-farmers-sowed-literal-seeds-change-southeast-asia hay http://science.sciencemag.org/content/early/2018/05/16/science.aat3188 ...v.v... Trường hợp tên gọi 12 con giáp còn có thể coi như là "nhập ngược lại" trong tiếng Việt, khi văn hoá TQ khởi sắc và có ảnh hưởng rất lớn cho các nước láng giềng.

[11] So với biểu tượng là con voi (kunjara) của Thái tộc傣族 (Dai), hay là con heo đực (Gai hay là I, Inoshishi) của Nhật thì rất khó mà đặt vấn đề nguồn gốc của âm và nghĩa của Hợi từ các nhóm ngôn ngữ này!

[12] Thí dụ như trên mạng wikipedia TQ chuyên bàn về 12 con giáp (gọi là 生肖 Sinh Tiêu)  https://zh.wikipedia.org/wiki/%E7%94%9F%E8%82%96#cite_note-%E7%9D%A1%E8%99%8E%E5%9C%B0%E7%A7%A6%E7%B0%A1%E8%88%87%E6%94%BE%E9%A6%AC%E7%81%98%E7%A7%A6%E7%B0%A1-4 ghi rằng 子鼠, 丑牛、寅虎、卯兔、辰龍、巳蛇, 午馬、未羊、申猴、酉雞, 戌狗、亥猪 Tí thử, Sửu ngưu、 Dần hổ、 Mão thố, Thần long、 Tị xà、 Ngọ mã、 Vị dương、 Thân hầu、 Dậu kê、 Tuất cẩu、 Hợi trư.

[13] Thật ra, VBL còn ghi thêm một cách dùng tương đương của heo và lợn, hay là "con sinh". Đây là ảnh hưởng sau này mà thôi: sinh chỉ gia súc dùng trong việc cúng tế như bò, dê, heo ... Sinh có gốc Hán Tạng.

[14] Theo truyền thuyết dân gian (không kiểm chứng được, có nhiều dị bản) thường kể cho các cháu bé vào mỗi đầu năm bên TQ thì trong cuộc đua tới dự một phiên họp (do 玉皇上帝 Ngọc Hoàng Thượng Đế tổ chức) thì chuột và mèo nhảy lên lưng bò để đi qua sông đến điểm họp. Giữa đường đi thì chuột đẩy mèo xuống nước (lại có truyền thuyết cho rằng mèo ngủ quên) và đến điểm hẹn trước nhất, do đó năm đầu là năm Tí (năm chuột), và năm thứ nhì là năm Sửu (năm "bò") - xem trang này chẳng hạn https://www.travelchinaguide.com/intro/social_customs/zodiac/story.htm ...v.v...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/07/2015(Xem: 24569)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 20825)
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là
01/07/2015(Xem: 11828)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
29/06/2015(Xem: 9709)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8307)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12323)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 31758)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 13283)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
23/06/2015(Xem: 12520)
Hơn hai mươi năm trước, khi đọc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nói về tiếng chuông Chùa Hàn San ở Tô Châu bên Trung Hoa, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao thơ Đường có không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác, vậy mà bài thơ chỉ bốn câu này lại gây ra bao nhiêu cuộc bút đàm tốn bao nhiêu giấy mực. Hay tại vì ngôi Chùa ở bến Cô Tô này đã quá nổi tiếng chăng? Nhưng đã ngờ thì phải cố mày mò tìm cho ra lẽ. Tôi tìm đọc thêm những câu chuyện chung quanh quả Đại hồng chung và tiếng chuông Hàn San. Nhiều huyền thoại đọc thật thú vị nhưng sao thấy nó cứ thực thực hư hư! Trong số ấy có một câu chuyện nói rằng, tiếng chuông chùa Hàn San có thể ngân vang rất xa, xa
21/06/2015(Xem: 7654)
Văn phòng Chính phủ Tây Tạng lưu vong, Dharamsala đưa tin – Hội nghị Tôn giáo lần thứ 12 của bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng đã diễn ra vào các ngày 18-20/06/2015 tại Dharamsala miền bắc của bang Himachal Pradesh, Tây Bắc của Ấn Độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]